Thế danh Đặng Ngọc Hiền Sinh năm 1949 (Kỷ Sửu) Viên tịch ngày 5 tháng 9 năm Canh Dần(12/10 năm 2010) Trụ thế 62 năm, Hạ lạp 42 năm Trụ trì chùa Phật Quang 217-219 Đường Đào Duy Từ Phường 7, Quận 10, Sài Gòn-Việt Nam - Nguyên thành viên GHPGVNTN Quận 10, Sài Gòn - Nguyên Giảng Sư Đoàn Phú Lâu Na trực thuộc Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN
Kính mong quý ngài nhứt tâm cầu nguyện cho Giác linh Hòa Thượng Nhật Minh cao đăng Phật quốc. Cầu nguyện quý ngài pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, Phật sự viên thành và kính chúc chư liệt vị vô lượng kiết tường. Nammô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật
Kính Cáo Bạch,
Tỳ kheo Thích Nhật Trí
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH NHẬT MINH VIỆN CHỦ CHÙA PHẬT QUANG
I - THÂN THẾ:
H.T. Thích Nhật Minh hiệu Vĩnh Xuyên thuộc dòng Phi Lai đời thứ 41, sau cầu pháp với Thiên Thai Thiền Giáo Tông được ban pháp tự Nguyên Quang, thế danh là Đặng Ngọc Hiền, sinh năm Kỷ Sửu (1949) tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Thân phụ là Cụ ông Nguyễn Văn Tá, Thân mẫu là Cụ Trần Thị Ngọc Anh, Hòa Thượng là con út trong gia đình có bốn anh em, mới hơn một tháng tuổi Hòa Thượng đã phải mồ côi mẹ nên được gửi cho Cô ruột là Cụ bà Nguyễn Thị Đền pháp danh Tâm Đền tự Diệu Hoà và cụ ông Đặng Văn Cương pháp danh Minh Thanh mang về dưỡng nuôi, các cụ đều là người phúc hậu nhơn từ, kính tin Tam Bảo cho nên Hòa Thượng đã được dìu dắt vào Đạo từ lúc còn bé và thấm nhuần giáo lý Phật Đà từ đó.
Thuở nhỏ cơ duyên sẵn có, Hòa Thượng được mẹ gửi cho Tổ Trừng Chí hiệu thượng Pháp hạ Thân, Chùa Hội Linh Cần Thơ, để Ngài tới lui tụng kinh lễ Phật và làm công quả. Ngài rất mực chuyên cần nên được mọi người trong Tự Viện mến thương, được Hòa Thượng Tổ khen đứa bé sau này sẽ thành pháp khí.
II - THỜI GIAN XUẤT GIA TU HỌC:
Nhờ đã gieo trồng căn lành từ nhiều kiếp nên Hòa Thượng được sống trong một gia đình đạo đức khả phong và sớm nhận thức được cõi thế là phù hư, kiếp nhân sinh là vô thường giả tạm, chỉ có Phật Pháp mới giải quyết được vấn đề sanh tử luân hồi và sự khổ đau hiện hữu nên đầy đủ thắng duyên, được thế phát xuất gia tại Chùa Thới Long với Hòa Thượng thượng Hồng hạ Tứ. Năm ấy Hòa Thượng vừa tròn 15 tuổi, được Hòa Thượng Bổn Sư ban hiệu Nhật Minh.
Sau khi xuất gia, được theo học Kinh Luật Luận tại Tổ Đình Hội Linh do Hòa Thượng Pháp Thân khai mở. Hòa Thượng rất chăm chỉ học hành và đạt được nhiều kết quả tốt, được Quý Chư Sơn Thiền Đức đánh giá cao và hết lời ngợi khen.
Năm 16 tuổi, căn lành tăng trưởng, giới hạnh tinh chuyên Hòa Thượng được Bổn sư cho phép thọ SA DI giới tại Đại Giới đàn phương trượng tổ chức tại Tổ Đình Hội Linh do Hòa Thượng thượng PHÁP hạ THÂN làm đàn đầu. Sau khi thọ giới xong, Ngài lại càng tinh tấn nổ lực hơn xưa và quý trọng như là thuyền bè,là phao nổi đưa mình qua biển khổ sinh tử mênh mông vô tận. Với bản chất thông minh, tinh tấn khiêm nhường, nhất là trên bước đường hướng thượng, Hòa Thượng đã đỉnh đạt đi lên và tự tạo cho mình một hòn đảo an toàn nhất giữa cuộc đời đầy cạm bẫy của lợi danh.
Thế rồi vào năm 1969, duyên lành hội đủ, được thọ Cụ túc giới tại Đại giới Đàn Phước Long xóm Bún Bình Dương do Hòa Thượng thượng Huệ hạ Trang làm đàn đầu, trong thời gian này Hòa Thượng được giới thiệu cho theo học chương trình thế học.
Mùa hạ năm Canh Tuất 1970, tham dự khoá An Cư Kiết Hạ và theo học Khoá Huấn luyện trụ trì miền Khánh Anh Long Xuyên do Hòa Thượng Thích Tắc Phước tổ chức.
Giữa năm 1973, Ngài được theo học với Hòa Thượng Thích Huyền Vi Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Hoằng pháp mở trường Huấn Luyện Giảng sư tại chùa Phật Quang.
Năm 1975, Hòa Thượng tu học và tham dự Khoá Ancư kiết hạ tại chùa Pháp Vân Quận Bình Thạnh.
III THỜI GIAN HÀNH ĐẠO:
Năm 1976, Ngài được Hòa Thượng Viện chủ chùa Phật Quang thượng Phước hạ Cần mời về chùa Phật Quang. Hòa Thượng luôn nuôi chí nguyện được phục vụ Giáo hội và xã hội. Có thể nói đây là trạm dừng chân của Ngài trên bước đường tu học cũng như sự nghiệp hành đạo cho đến ngày về cõi Phật.
Năm 1991, sau khi Hòa Thượng Phước Cần về cõi Phật, Ngài được Ban Trị sự Thành Hội Phật Giáo Tp. Hồ Chí Minh chính thức Bổ nhiệm Trụ trì chùa Phật Quang.
Năm 1992, Hòa Thượng khởi công trùng tu xây dựng mở rộng 5 tầng lầu phía sau làm nhà trù, nhà thờ Tổ, Cốt đường và phòng Tăng. Cũng tại nơi đây Ban Hoằng Pháp Trung ương GHPGVN do Hòa Thượng Thích Trí Quảng làm Trưởng Ban đã chiêu sinh làm nơi lưu trú cho 150 Giảng sư Đoàn và Tăng chúng tu học.
Năm 1992 đến năm 2002, là Ủy viên Từ thiện xã hội thuộc Ban Đại Diện Phật giáo Quận 10.
Năm 2004, Hòa Thượng trùng tu lại Giảng đường và Chánh điện như ngày hôm nay.
Ngoài ra Hòa Thượng còn khai sơn và xây dựng các chùa Phật Quang Cao Tuyền Long Khánh Đồng Nai. Phật Quang Thọ Sơn tự huyện Bù Đăng, Phật Quang Long Tuyền tự huyện Quảng Hớn tỉnh Bình Phước, Phật Quang Phước Điền tự huyện Long Mỹ tỉnh Hậu Giang, Phật Quang Quang Minh tự huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
Hơn 60 năm trụ thế cõi Ta Bà, Hòa Thượng đã đem hết tâm lực ra phụng sự chúng sanh hầu đền đáp công ơn chư Phật. Với chí nguyện hoằng pháp lợi sanh, báo Phật ân đức của bậc sứ giả Như Lai, ngài đã tiếp tăng độ chúng, góp phần vào việc giáo dục đào tạo nhiều thế hệ Tăng Tài cho Giáo hội.
Trên bước đường cầu quả giải thoát, Hòa Thượng tự chọn pháp môn Tịnh độ, thực hiện hạnh độ tha, khai đàn Bát Quan trai giới cho hàng Phật tử tại gia, mở nhiều khóa tu niệm Phật, Đại Bi và trì kinh Pháp hoa, sách tấn tu hành, lấy phép lục hoà làm nền tảng cho tứ chúng đồng tu đồng học.
Đối với ngoài xã hội, Hòa Thượng luôn thực hiện tốt đạo đẹp đời, tham gia tốt các công tác từ thiện xã hội với Giáo hội và góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Hoạt động theo phương châm Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật.
IV. THỜI KỲ VIÊN TỊCH :
Những tưởng nơi cõi Ta Bà uế trược này, Hòa Thượng sẽ còn thác chất lâu hơn nữa để tiếp tục hoá duyên, làm đống lương cho Phật pháp. Nào ngờ vào quý thu năm Canh Dần, chứng bệnh nan y tái phát, mặc dù đã được các y bác sĩ và môn đồ đệ tử hết lòng chăm sóc và cứu chữa nhưng mọi sự vật trên cõi đời biến động vô thường này tùy theo nhân duyên, Hòa Thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 9 giờ sáng, ngày 12 tháng 10 năm 2010 (nhằm mồng 5 tháng 9 năm Canh Dần). 62 năm trụ thế với 42 mùa ancư kiết hạ di qua, ngài ra di để lại niềm kính tiếc sâu xa trong lòng của cộng đồng tăng lữ và toàn thể môn đồ pháp quyến và quý pháp lữ.
Nam mô Phật Quang Đường thượng Từ Lâm Tế Chánh Tông tứ thập nhất thế húy thượng Nhật hạ Minh tự Nguyên Quang hiệu Vĩnh Xuyên, Đặng Cộng Hoà thượng giác linh thùy từ chứng giám.
ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU
NAMMÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
Kính gửi: Thượng Tọa Thích Minh Đức, Trụ Trì Chùa Phước Long, Connecticut Thích Nhật Trí, Trụ Trì Chùa Pháp Vũ, Florida, USA Thượng Tọa Thích Nhật Tồn, Trụ Trì Quan Âm Sơn Đạo Tràng, Tân Tây Lan cùng môn đồ pháp quyến, được tin Sư huynh của quý Thượng Tọa là:
Hòa Thượng THÍCH NHỰT MINH Pháp tự Nguyên Quang, Pháp hiệu Vĩnh Xuyên Sinh năm 1949 (Kỷ Sửu) - Trụ Trì chùa Phật Quang, Quận 10,Sài Gòn-Việt Nam - Nguyên Thành Viên Đoàn Hoằng Pháp Phú Lâu Na trực thuộc Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVNTN Vừa Viên tịch ngày 5 tháng 9 năm Canh Dần(12/10 năm 2010) Trụ thế 62 năm Hạ lạp 42 năm
Toàn thể Tăng Ni và Phật tử thuộc Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu xin vọng hướng về giác linh đài Phật Quang Đường Thượng, thành kính đảnh lễ Hòa Thượng Tân Viên Tịch và Nhất tâm cầu nguyện Giác-Linh Hòa ThượngTân Viên Tịch:
Chân thành chia buồn sâu sắc đến quý Thượng Tọa Minh Đức, Thượng Tọa Nhật Trí, Thượng Tọa Nhật Tồn cùng chư Tôn Đức và môn đồ pháp quyến thuộc Chùa Phật Quang, Quận 10, Sàigòn.
Melbourne, Úc Châu, Phật lịch 2554, ngày 14-10-2010
Nay Thành kính Phân Ưu
Thượng Tọa Thích Tâm Phương Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Phó Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Sư Cô Thích Nữ Hạnh Nguyên Tri Sự Tu Viện Quảng Đức Nguyên Lượng Nguyễn Văn Độ Steve LoweNguyên Thiện Bảo Ban Trị Sự & Hộ Trì Tam Bảo Tu Viện Quảng Đức Nguyên Dũng Phạm Thanh Hùng Gia Trưởng Gia Ðình Phật Tử Quảng Ðức Quảng Tịnh Nguyễn Kim Phương Ban Quảng Đức Đạo Ca
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017)
Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
Trong Cây Có Hoa
Trong Đá Có Lửa
Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
“Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006.
Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
“Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa),
Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)”
Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.