Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đường đi vô hạn, nhớ người xưa

05/11/201508:43(Xem: 7560)
Đường đi vô hạn, nhớ người xưa
thich hanh tuan 6
ĐƯỜNG ĐI VÔ HẠN, NHỚ LỜI XƯA…
 

 “I feel blessed since not too many people can do what we are doing. Working in this field required a lot of energy and sacrifice. We are in this position as a spiritual leader and carrying out the message of the Buddha to help ourselves and others. To be happy, one must be at ease and mindful about our existence.” Thích Hạnh Tuấn


            Tiếng chuông reo vừa dứt, dạy lớp học Honors Chemistry cuối cùng trong ngày vừa xong, thở một hơi và ngồi xuống mở điện thư, thấy anh Quảng Tịnh Nguyễn Chí Thanh gởi email Tin Buồn, đọc mà không tin vào mắt mình, rồi đọc lại lần nữa: "Chúng con/chúng chúng tôi kính báo tin: Thượng Tọa Thích Hạnh Tuấn... Đã viên tịch trưa hôm nay, thứ Sáu ngày 30/10/2015...

            Vẫn không tin vào mắt mình!

Cùng lúc quý anh Thị Nghĩa, Quảng Pháp và Nguyên Túc cũng nhắn tin qua Facebook. Chúng tôi gọi chị trưởng Tâm Phùng để kiểm chứng.

Thật rồi! Thầy đi thật rồi!

Bàng hoàng và xót xa!

            Không biết làm sao hơn, lúc này, chỉ ngồi xuống—hít thở sâu và chậm. Tự nhiên nhớ hai câu cuối trong bài thơ Dạ Toạ của Ôn Tuệ Sỹ, mà thầy thay mặt ký tặng vào năm 2002, tại Tu Viện Kim Sơn: 

            "Không môn thiên viễn do hòai mộng 

            Quy lộ vô kỳ nhiệm chuyển bồng"

            (Hình bóng chùa xưa còn nhớ mãi 

            Đường về vô hạn, rối lòng thêm)


*

            Thầy ơi! mới ngày nào đây mà, còn hẹn anh chị Nguyên Phú và Nguyên Nhơn sẽ về thăm Thầy và GĐPT Trúc Lâm. Nhớ ngày nào gặp Thầy tại Chùa Việt Nam, Houston, TX trong kỳ trại Huấn Luyện A-Dục Lộc Uyển, 1998 nghe Thầy giảng pháp thật hay. Nhưng giây phút gây ấn tượng và sâu đậm nhất mà chúng tôi nhớ mãi là Thầy lên sân khấu, hát bài “Tôi Yêu Màu Lam” của nhạc sĩ Trần Nhật Thanh. Đó cũng là lần đầu tiên, chúng tôi biết bài hát ấy. Dạt dào cảm xúc!


Chúng tôi yêu màu Lam là màu thêm sức sống 

Chúng tôi yêu màu Lam màu kết bao tình thương 

Lòng mến yêu vô vàn về đây ta cùng hát 

Hát lên cho đời hết bao đau buồn 

ĐK:

Bạn hỡi về đây ta sống vui bên nhau 

Xây mộng ước mai sau cho tương lai thêm đầm ấm 

Bạn hỡi về đây tay nắm tay vang ca 

Với lời ước cho nhau một nguồn sống bao chan hòa 


Chúng tôi yêu đàn em bằng tình thương cao quý 

Hôm nay về đây nhìn các em hồn nhiên 

Đời sống vui an lành. Và chúng tôi yêu màu Lam 

Với bao nhiêu thành kính trong tâm hồn. 

          Hát xong, Thầy còn nói là Thầy được “độc quyền hát” bài này. Bài hát mà Thầy yêu quý nhất và Thầy luôn hát mỗi khi đi trại với Gia Đình Phật Tử, nhưng lý do nào Thầy chọn khoác áo Đà thay áo Lam? Thầy quan niệm rằng màu Nâu sồng là sự hòa quyện tuyệt vời giữa màu Lam và huyết tạng, biểu tượng của lòng nhiệt huyết và tình thương của tuổi trẻ mang chí nguyện đem Đạo vào đời.  Đó cũng là bài học kỷ niệm đánh dấu cuộc đời Huynh trưởng của chúng tôi trong tổ chức GĐPT Việt Nam. 


            Sự dấn thân huynh trưởng của chúng chúng tôi từ đó được dìu dắt, thương yêu và nâng đỡ của nhiều vị Chư Tôn Túc tại Hòa Kỳ, trong đó có Thầy. Lần đầu tiên gặp mặt và tâm sự với Thầy thật lâu là dịp Thanksgiving tại Tu Viện Kim Sơn, 2002, sau khi chia sẻ những ưu tư và hoài vọng cho tổ chức GĐPT, Thầy lấy tập thơ của Ôn Tuệ Sỹ, Ngục Trung Mị Ngữ do Quảng Hương Tùng Thư xuất bản năm 1988, ký tặng, vì biết chúng tôi là người yêu thơ văn. Nhưng hơn thế nữa Thầy tâm sự, Ôn Tuệ Sỹ là một thiên tài, có chí lớn cho Phật giáo, Quốc gia và Dân tộc, nên chúng ta phải học hỏi và noi theo. Vì thế, bản thân Thầy cũng đang theo đuổi chương trình Tiến Sĩ Phật Học (Buddhist Studies) tại University of California at Berkeley, sau khi học xong văn bằng Thạc Sỹ Tôn Giáo Tỷ Giảo (Master of Theology Studies) tại Harvard University. Thật tự hào vì Thầy là người Tu sỹ mà mình có duyên gần gũi tiếp xúc. Chúng chúng tôi rất kính trọng Thầy, ủng hộ và noi theo hạnh nguyện cao cả của Thầy. Rồi năm 2006, Thầy được thỉnh về trụ Trì Chùa Trúc Lâm, thành phố Chicago, tiểu bang  Illinois, USA để hành đạo. 
           Từ ngày Thầy đảm nhiệm trọng trách Trụ Trì Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Chùa Trúc Lâm, Phật giáo Việt Nam tại tiểu bang Illinois nói riêng và trung Mỹ nói chung ngày càng phát triển, trong đó có tổ chức Gia đình Phật tử, nhất là GĐPT Trúc Lâm mà Thầy luôn tự hào và chia sẻ những thành công với chúng chúng tôi.     

            Từ đó về sau, mỗi khi Thầy về thăm Tu Viện Kim Sơn, Chùa Phổ Từ, Chùa Kim Quang hay đơn vị GĐPT Kim Quang là dịp chúng tôi được duyên lành hội ngộ.  Ngoài ra, trong mỗi lần học Phật pháp cho các trại huấn luyện, chúng tôi đều có cơ duyên gặp Thầy, lần cuối cùng gặp và tâm sự cùng Thầy bằng xương bằng thịt là ngày phỏng vấn Thầy và Thầy Từ Lực cho luận án tại Tu Viện Kim Sơn vào năm 2013. Chúng tôi học hỏi từ Thầy rất nhiều, lần chót là Kinh Thắng Man trong bậc Lực trong trại Vạn Hạnh. Sau đại hội 'hợp nhất' toàn quốc 2004 tại chùa Diệu Pháp, Monterey Park, California, tổ chức GĐPTVN Hoa Kỳ xác nhận lập trường trực) thuộc vào ‘thế’ truyền thống trong hệ thống GHPGVNTN, mà sau này vào năm 2008, Thầy đảm nhận chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên của Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK. Hòai vọng của Thầy cũng như Chư Tôn Túc là sự ngồi lại, hòa giải, và hợp nhất lại tổ chức GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ vì đang bị chia rẽ. Làm được như vậy, tổ chức GĐPT Việt Nam tại Hoa Kỳ mới lớn mạnh hầu giúp cho Giáo Hội, giúp Phật Giáo Việt Nam tiếp tục sứ mệnh của mình một cách vững chãi là đem đạo Phật giúp cho đời bớt khổ, nhất là giúp giới trẻ, gia đình họ và xã hội nói chung. Uớc mơ, hy vọng và hòai bão đó cũng là nỗi niềm chung của rất nhiều Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni mà duyên lành vẫn chưa đủ, mà Thầy tình nguyện dấn thân chỉ vì tình yêu thương màu Lam bất diệt trong Thầy. Có lẽ bài học vô thường trong sự ra đi đột ngột của Thầy sẽ làm quý anh chị lớn có quyền hạn, bổn phận và trách nhiệm trong tổ chức GĐPT ngồi lại và tìm lối đi chung của Tổ Chức, cho Phật giáo Việt Nam ngày càng lợi lạc. 

            Trở lại việc Thầy trò, chúng tôi với tư cách và trách nhiệm của hàng huynh trưởng cấp Tín, chúng con/chúng tôi  đã và đang làm những gì có thể cho tổ chức và cho Phật giáo Việt Nam như lời Thầy dạy. Khi chúng tôi, có cơ duyên phỏng vấn Thầy cho luận án của mình, những chi tiết về cách hành hoạt, tu học, lãnh đạo, dấn thân của Thầy có thể là kim chỉ nam cho nhiều người. Thầy là một học giả uyên thâm, Thầy là một trong số ít Tăng Ni Phật giáo Việt Nam viết Phật pháp bằng tiếng Anh và giảng dạy tiếng Anh một cách lưu loát. 

            Công hạnh và hạnh nguyện của Thầy thì làm sao nói hết, Thầy đi chúng con xót thương, như biết Thầy đã dạy:  “Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với chúng ta. Chúng có thể đến bất cứ lúc nào mà không một lời báo trước. Bởi vì cuộc sống là vô thường, nên chúng ta không biết chắc rằng chúng ta có còn sống ở sát-na kế tiếp hay không. Nếu một tai nạn xảy đến, chúng ta sẽ biến mất khỏi thế giới này ngay tức khắc. Mạng sống của chúng ta ví như hạt sương đọng lại trên đầu ngọn cỏ trong buổi sáng mùa xuân. Nó sẽ bị tan biến ngay khi ánh mặt trời ló dạng. Những ý niệm của chúng ta thay đổi rất nhanh trong từng sát-na. Thời gian rất ngắn ngủi. Nó chỉ kéo dài trong một sát-na (kṣaṇa), giống như hơi thở. Nếu chúng ta thở vào mà không thở ra, chúng ta sẽ chết”.  Hôm nay ngồi đây, nhớ Thầy nhớ giọng nói tiếng cười và bài hát tuyệt vời, xuất phát từ trái tim yêu màu áo Lam của Thầy.  Với chúng con Thầy là đấng Trượng phu, là bậc trưởng tử Như lai mà chúng con thương kính. Đây là bài thơ kính bái biệt Thầy. 


THẦY - CÂY TRÚC VÀNG

Tưởng niệm Thầy Hạnh Tuấn


Ngày Thầy mất, vía Quán Âm Bồ Tát

Hiện thân Thầy cũng Bồ Tát Quán Âm

Thầy lắng nghe đời vô thường đau khổ

Đem Từ bi, Trí tuệ gieo bốn phương

Thầy - sống vị tha hoá độ khôn lường

Nay xả bỏ báo thân về Cõi Tịnh

Thầy - Hòang trúc nhẹ lay

in hình mặt đất

vô sanh.
            Sự ra đi bất ngờ của Thầy là một nỗi mất mát quá lớn lao cho tổ chức Gia Đình Phật Tử, cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ, cho Phật Giáo Việt Nam nói chung và cho Đạo tràng Chùa Trúc Lâm Chicago và các vùng phụ cận nói riêng. Ngưỡng nguyện Mười Phương Chư Phật Chư Đại Bồ Tát phóng quang tiếp độ cho Giác linh Hòa Thượng thượng Hạnh hạ Tuấn Cao Đăng Phật Quốc.


Phật tử áo Lam đồng kính bái

Tâm Thường Định - Nguyệt Giác Nghiêm



thich hanh tuan 4


Bài Học về Sự Sống và Cái Chết

   Viết để tưởng nhớ Mẹ và Thầy Hạnh Tuấn



            Có lần chúng tôi ngắm hoa Quỳnh nở, trước vẻ đẹp thanh tao, hương thơm quyến rũ nhưng phảng phất lẽ vô thường trong cõi phù sinh kiếp người. Chúng tôi thầm hỏi, phải chăng sự sống bắt đầu từ lúc hoa Quỳnh nở và kết thúc khi hoa tàn? Điều đó tất nhiên, nhưng ý nghĩa quan trọng là: Mình đã làm được gì trong khoảng thời gian đó bùng nở đó?


           Những năm trước, nhân đọc một bài pháp thoại, một vị Thiền sư hỏi những người đệ tử của mình, cuộc sống dài bao lâu? Có người bảo 100 năm, 75 năm, 50 năm, 25 năm, v.v... Nhưng câu trả lời của vị Thiền sư đó là: “Cuộc sống chỉ dài như một hơi thở”, vì nếu một hơi thở vào, mà không ra hoặc ngược lại, tức khắc chúng ta từ giã cuộc đời này. Tự nhiên, khi ngắm hoa Quỳnh nở rồi tàn trong một đêm trăng tròn Mười Sáu, chợt nhớ bài pháp thoại năm nao, tâm cảnh hữu tình mà sáng tác một bài thơ: 
                                    Nếu cuộc sống dài như hơi thở,

                                    Ta làm gì giữa hơi thở trong ta.

Thật vậy, cuộc sống chỉ dài như hơi thở mà thôi. Mong manh và vô thường. Giữa sống và chết là một khoảng thời gian quý giá. Mình làm gì trong khoảng thời gian đó mới là điều quan trọng. Vì thế, niềm tin và thái độ về sự chết của chúng ta có một ảnh hưởng rất lớn đến cách sống của chính mình.


            Có thể nói không có nỗi đau buồn nào lớn hơn khi phải chia tay vĩnh viễn với người thân. Mặc dù chúng ta biết rất chắc chắn có sinh có tử, và thời gian của chúng ta với cuộc đời này có hạn và không ai có thể thoát khỏi sự vô thường của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng phải trải qua những cú sốc về cái chết của người thân của mình, nhất là Ba Mẹ. Nói như vậy để chúng ta có thể sống và hành hoạt để chuẩn bị cho một hành trình ra đi vĩnh cữu của chính mình.


            Những câu hỏi như con người từ đâu đến và chết sẽ đi về đâu? Khi chết chúng ta để lại những gì? Thực ra trong quá trình tìm kiếm những giải đáp cho những câu hỏi này, Phật giáo ra đời. Đạo Phật dạy chúng ta không nên thờ ơ với cái chết, chúng ta nên đối diện với chính nó khi những cánh cửa sanh lão bệnh tử từ từ mở ra. Phải chăng văn hóa đương đại là cố gắng tránh né hoặc từ chối nhìn thẳng vào cái chết của con người. Tuy nhiên, khi chúng ta có được nhận thức đúng đắn về sự ra đi vĩnh cữu, chúng ta buộc phải xem xét cuộc sống của chúng ta và tìm cách sống cho nó có ý nghĩa và lợi lạc hơn.  Sự trở về với cát bụi làm cho chúng ta trân quý cuộc sống này; nó có thể đánh thức chúng ta sống tử tế hơn trong từng giây từng phút. 


            Theo quan điểm Phật giáo, sự sống và cái chết là hai giai đoạn của một sự liên tục. Cuộc sống không phải bắt đầu từ lúc chúng ta sinh ra hoặc kết thúc vào khi nhắm mắt. Tất cả mọi thứ trong hoàn vũ - từ sinh vật nhỏ bé vô hình trong không khí (vô sắc giới) mà chúng ta đang hít thở cho đến vòng xoáy của những dải ngân hà - đều đi qua các giai đoạn thành trụ hoại không. Cuộc sống cá nhân của chúng ta có chăng là một phần tử của nhịp điệu hoà hợp trong vũ trụ bao la này. Cuộc sống và mọi thứ trong vũ trụ lệ thuộc nhau, tương quan tương ái. Tất cả như một dòng chảy nó không có khởi đầu và không có kết thúc.

            Thuở ban đầu, giáo lý Phật giáo cho rằng quá trình sinh-tử là một thực trạng không thể tránh khỏi và chúng ta có thể thoát khỏi thực trạng khổ đau này.  Đấng Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni nhận thức rằng sự ham muốn cho cuộc sống này được tái diễn đã buộc chúng ta luôn ở trong vòng sanh tử luân hồi. Nhưng nếu chúng ta loại bỏ được sự ham muốn (ly ái – diệt tham luyến ái), chúng ta có thể cắt đứt các nguồn năng lượng của nghiệp lực đã đưa ta vào vòng xoáy của sinh-tử. Hay nói một cách khác, chúng ta thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, đạt đến cảnh giới Niết bàn là mục đích tối hậu của giáo lý Phật Đà. Ngày nay, có những truyền thống Phật giáo cũng cho rằng cuộc sống là một chu kỳ của khổ đau và từ đó chúng ta có thể giải thoát.

            Tuy nhiên, trong kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra) đã chiếu sáng một tư duy hoàn toàn mới mẻ mang tính cách mạng cho con người, đó là khẳng định mục đích sâu sắc trong cuộc sống của chúng ta trên thế giới này. Đức Phật Thích Ca nhấn mạnh rằng "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh", và bản chất thiết yếu trong cuộc đời này, chúng ta có thể sống và trang trải tất cả những phẩm chất và hạnh nguyện của một vị Phật đang hiện hữu. Khi chúng ta tỉnh ngộ với sự thật là Phật tánh vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, con người sẽ khám phá ý nghĩa cơ bản quan trong về mục đích, và cuộc sống mang một chất lượng hoàn toàn khác nhau, lạc quan, an vui và vô giá.

            Vậy, Phật tánh là gì và làm thế nào chúng ta làm sống lại? Về bản chất, Phật tánh là khả năng trở thành Phật, là sự thúc đẩy vốn có trong cuộc sống để giảm bớt đau khổ và mang lại hạnh phúc cho người khác. Nó được cô đọng trong kinh Pháp Hoa bằng tuyên bố: "Một là tất cả, tất cả là một”.

            Từ quan điểm giác ngộ của Đức từ Phụ Thích Ca Mâu Ni, chúng ta có đầy đủ nhân duyên, sinh vào thế giới này. Chúng ta phải quyết tâm đánh thức Phật tính của mình và của người khác (Tự độ, độ tha). Chúng ta hãytự giác, giác tha, rồi mới đến giác hạnh viên mãn. Khi chúng ta tỉnh táo với mục đích này, các nguyên nhân và tác động trong cuộc sống của mình trở thành những đức tính của Phật.  Tất cả những hoàn cảnh, kinh nghiệm trong cuộc sống, từ những khổ đau tột cùng đến hạnh phúc viên dung đều là phương tiện để chúng ta chứng minh sức mạnh của Phật tánh và tìm về với bến giác. Vì tánh bình đẳng của Phật tánh, nên chúng ta sẽ sống tử tế hơn, tôn trọng nhau hơn và tìm cách làm dịu những cơn đau và làm tăng thêm hạnh phúc cho mình, cho người và cho mọi loài.

            Nói tóm lại, việc sanh tử là trọng đại, chúng ta sống để chuẩn bị cho cái chết. Ai có sự chứng nghiệm thì mới hiểu. Tháng trước Mẹ của mình vẫn còn tỉnh táo và minh mẫn. Thế rồi bị bệnh cảm, chuyển sang viêm phổi, tuổi già sức yếu, Mẹ đã thanh thản ra đi chỉ vỏn vẹn trong một tuần. Chiều nay, nghe tin Thầy Hạnh Tuấn thâu thần thị tịch, lòng băn khoăn, day dứt. Nỗi buồn này chồng chất nỗi buồn khác. Qua những chứng kiến hoặc trải nghiệm về sinh lão bệnh tử, chúng ta trở nên ý thức hơn về phẩm chất và giá trị của cuộc sống, chúng ta có lẽ sẽ dễ dàng thông cảm với những đau khổ của kẻ khác và làm cuộc sống này ngày càng có ý nghĩa.

            Sống và chết. Đến và đi. Có chăng chỉ là lý thuyết và niềm tin. Điều quan trọng là chúng ta có lối sống, nhận thức và biết trân quý giá trị của cuộc đời này. Xin hãy nhớ và quán chiếu, Ta đang làm gì trong khoảng thời gian chúng ta hiện hữu trong cõi đời này. Xin hãy làm lợi mình, lợi người, trong hiện tại và luôn cả tương lai. Xin hãy bắt đầu bạn nhé.


        Cuối cùng xin chia sẻ hai bài thơ mới viết, một để tưởng niệm Mẹ, bài kia để tưởng niệm Giác linh Thầy Hạnh Tuấn để kết thúc bài viết Bài Học về Sự Sống và Cái Chết


MẸ - TÌNH THƯƠNG BAN ĐẦU

Ngày Mẹ mất, tiếng Nam mô vang vọng

Mẹ đến đi tự tại thong dong.

Mẹ hiện thân của cõi vô song.

Con nối tiếp, nguyện sống đời tao nhã.


THẦY - CÂY TRÚC VÀNG

Tưởng niệm Thầy Hạnh Tuấn


Ngày Thầy mất, vía Quán Âm Bồ Tát

Hiện thân Thầy cũng Bồ Tát Quán Âm

Thầy lắng nghe đời vô thường đau khổ

Đem Từ bi, Trí tuệ gieo bốn phương

Thầy - sống vị tha hoá độ khôn lường

Nay xả bỏ báo thân về Cõi Tịnh

Thầy - Hoàng trúc nhẹ lay

in hình mặt đất

vô sanh.


Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

Tâm Thường Định

Sacramento, tuần thứ 5 cúng Mẹ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6557)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4564)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4506)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4438)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10361)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5178)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6000)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6547)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7844)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9042)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567