Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Húy Kỵ 2015 Ni Trưởng Thích Nữ Như Trí, Khai Sơn Chùa Thiên Long

18/10/201511:04(Xem: 6844)
Lễ Húy Kỵ 2015 Ni Trưởng Thích Nữ Như Trí, Khai Sơn Chùa Thiên Long

 


Su_ba_Thien_Long (1)SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

NI TRƯỞNG thượng NHƯ hạ TRÍ

 

Ni Trưởng thuộc dòng Lâm Tế ,Tông Tế Thượng, Tứ Thập Tam Thế, Huý  thượng Tâm hạ Niệm, tự Như Trí. Thế danh Lê Thị Thiền Minh, sinh ngày 12 – 06 - 1918 tại Thủ Dầu Một - Bình Dương.

Xuất thân từ một gia đình trung lưu, Thân Phụ là cụ ông Lê Văn Cử. Thân Mẫu là cụ bà Bùi Thị Chanh, húy Tâm Thanh, tự Diệu Tịnh. Trong gia đình có tám anh em, Ni Trưởng là người con út .

Do ảnh hưởng mẫu thân thấm nhuần Đạo lý nên các con tuy còn nhỏ tuổi cũng đã nảy mầm thoát tục.

Năm 1931, lúc này Ni Trưởng vừa tròn 13 tuổi, cả ba chị em Ngài (Ni trưởng cùng người chị thứ sáu  và người anh thứ bảy) đều đến cầu Pháp, xin xuất gia với  Hòa Thượng Thích  Pháp Hỷ, trụ trì chùa Thiên Ân.

Sau 2 năm, tại chùa có mở Giới Đàn, Ni Trưởng được Hoà Thượng cho phép thọ giới Sa Di Ni.

Ba năm sau, Ni Trưởng ra Bà Rịa cầu Pháp và thọ giới Thức Xoa Ma Na tại Tổ Đình Thiên Thai.

Trải qua 8 năm ở chùa Thiên Aân, Ni Trưởng trở về chùa Vạn Phước do thân mẫu mới lập nên.

Khi vừa tròn 20 tuổi, Ni Trưởng thọ Tỳ Kheo Ni – Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn Tổ đình Thiên Thai.

Thọ giới xong, vì lòng thiết tha cầu Đạo, Ni Trưởng đã cùng  Sư Bà Tâm Ấn thân hành đến Cố Đô Huế cầu học Phật Pháp tại chùa Từ Đàm. Tại đây, Ni Trưởng được Chư Hòa Thượng dạy về giáo nghĩa của các Bộ kinh và luật. Với tư chất thông minh Ni Trưởng học rất giỏi, trở thành vị học Ni ưu tú.

Một thời gian sau, Ni Trưởng đến chùa Diệu Đức tiếp tục học hỏi nghiên cứu. Sau 4 năm  Ni Trưởng trở về Nam, xuống Trà Vinh, tại chùa Tuyên Linh tiếp tục học Đạo trong 2 năm. Lúc đó Ni Trưởng vừa tròn 27 tuổi.

Năm 1946, về lại Sài Gòn, Ni Trưởng hợp tác với Sư Trưởng Như Thanh đến chùa Linh Sơn huyện Bình Chánh cùng giúp Hòa Thượng Liễu Thiền làm Phật sự. Tại đây, Quí Ni Trưởng lại tiếp tục được học kinh Pháp Hoa với Hòa Thượng. Nhưng lúc này thời thế rất khó khăn  nên việc học thường bị gián đoạn.

Năm 1947, Sư Trưởng Như Thanh mở ra Phật Học Ni Viện tại chùa Huê Lâm   và mời Ni Trưởng cùng hành Phật sự. Ni Trưởng tham gia trong việc thành lập Ban Chức Sự Ni Trường và đảm trách chức vụ Trưởng Ban Tri Sự. 

Năm 1950, Ni Trưởng về nhận chùa Thiên Long (Phú Nhuận). Một mặt Ni Trưởng lo chuyên lòng tu tập và chấn hưng ngôi Già Lam Thiên Long. Mặt khác, Ni Trưởng vẫn tham gia công tác Phật sự cùng quí Ni Trưởng và nhận dạy học cho trẻ em tại cơ sở “Bảo Trợ Nhi Đồng”.

Năm 1956, Ni Bộ Nam Việt chính thức được thành lập, Ni Trưởng cũng sát cánh chung vai góp sức cùng Sư Trưởng Như Thanh, đảm trách chức vụ Tổng Thư Ký.

Năm 1957, Ban Quản Trị Ni Bộ thành lập trụ sở tại chùa Từ Nghiêm. Tại đây, năng lực hoạt động trên là Sư Trưởng Như Thanh, dưới là Ni Trưởng. Vì thế, Ni Trưởng càng dốc hết tâm lực, nguyện lực để mọi công việc hoàn thành mỹ mãn.

Thấy Ni Trưởng có năng lực và tâm huyết cao, Sư Trưởng Như  Thanh mời Ni Trưởng về cùng làm Thiền Chủ  và dạy Luật cho ni chúng tại Vạn Quốc Tự (thuộc tỉnh Bến Tre) trong 3 tháng an cư. Xong việc, Ni Trưởng lại lên Gò Dầu kiết Đông và dạy Tân Quốc Văn. Ba tháng kiết Đông mãn, Ni Trưởng trở về lại Huê Lâm .

Trong những năm cuối thập niên 60,  nhằm mở rộng thêm việc hoằng hóa Ni Trưởng cùng với Quí Ni Trưởng Lệ Hòa, Giác Đạo, Giác Hiếu, Diệu Từ, Diệu Định, Tắc Anh đến Chùa Thiên Phước (quận I) mở trường dạy học.

Năm 1959, Ni Trưởng nhận trụ trì ngôi chùa Thiên Chơn ở Định Quán gần rừng núi. Nhưng một thời gian sau, Ni Trưởng đã giao Ngôi Thiên Chơn Tự Viện lại cho vị khác và tiếp tục trở về Từ Nghiêm hành đạo.

Năm Mậu thân, (1963), hòa cùng nỗi đau mất nước, Ni Trưởng tham gia phong trào vì hòa bình độc lập cho dân tộc, xuống đường biểu tình.

Năm 1969, Ni Trưởng  nhận chùa Thiên Hòa tại Búng – Bình Dương. Với từ nguyện, bi nguyện, Ni Trưởng đã thành lập  “Ký Nhi Viện” để nuôi dạy trẻ mồ côi.

Vào những năm thập niên 80, Ni Trưởng được bổ nhiệm làm Giám Viện Ni Trường Từ Nghiêm và dạy chúng tu học. Đến hết nhiệm kỳ, Ni Trưởng hoàn thành trách nhiệm xuất sắc.

Sau đó, Ni Trưởng trở về lại chùa Thiên Long cho đến nay.  Cuối tháng 9 năm 2003 vì tuổi già sức yếu, Ni Trưởng đã  thọ bệnh và chỉ chuyên tâm một lòng niệm Phật.


Đến đầu tháng 10 năm 2006, sức khỏe của Ni Trưởng yếu dần,  mặc dầu đã được sự quan tâm của của Ban Tri Sự Thành Hội Phật Giáo Việt Nam thành Phố Hồ Chí Minh. Ban Đại diện Phật Giáo Quận Phú Nhuận, Môn Đồ Pháp Quyến, các Y, Bác Sĩ Bệnh Viện Sài Gòn tận tình chăm sóc, nhưng nghĩa duyên ký tất, nên Sư Trưởng đã an nhiên viên tịch vào lúc  : 10 giờ 00  phút, ngày  23 tháng 10  năm   2006 ( nhằm ngày mùng 2   tháng  9   năm Bính Tuất )  tại Chùa Thiên Long. Trụ thế: 88 tuổi đời; Hạ lạp: 66 năm.

Cuộc đời tu học của Ni Trưởng như đóa Sen vươn lên từ lòng đất hiền hòa nhưng tỏa ngát hương Từ  Bi, tịnh khiết tròn Giới Đức và thanh mỹ màu Định Tuệ. Đây chính là hình ảnh một bậc chân tu “vì Đạo quên mình, vì đời hy sinh tất cả”, là bài Pháp sống động không lời đi thẳng vào lòng hậu thế. Nay, chúng con – hàng đệ tử tài hèn trí mọn –không biết dùng những ngôn từ nào để diễn đạt hết cả một cuộc đời tài đức mà Ni Trưởng đã rạng gương.

 Môn Đồ Pháp Quyến (kính soạn)



Hình ảnh Lễ Húy Kỵ 2015
Ni Trưởng Thích Nữ Như Trí, Khai Sơn Chùa Thiên Long


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4908)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7233)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4241)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4875)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5643)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6249)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3864)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5304)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5358)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13037)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567