Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Viên Diệu (1954-2015)

29/08/201507:13(Xem: 6585)
Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Viên Diệu (1954-2015)

HT Thich Vien Dieu

Tiểu Sử
Hòa Thượng Thích Viên Diệu


        Hòa thượng thế danh Trần Bá Không, sinh ngày 28 tháng 8 năm Giáp ngọ (1954) tại làng Phú Lễ, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên –Huế. Song thân là cụ ông Trần Bá Thuyết pháp danh Nguyên Đắc và cụ bà Trương Thị Đị pháp danh Nguyên Lâm. Ngài là con trai út trong gia đình có 8 anh em, gồm 7 trai 1 gái. Gia đình Hòa thượng có truyền thống nhiều đời thâm tín và phụng sự Tam Bảo, nên từ nhỏ Hòa thượng có cơ duyên được gặp Phật pháp, ươm mầm hạt giống Bồ Đề.

Từ khi còn là một chú bé, hằng đêm được cha mẹ dẫn đến chùa lễ Phật tụng kinh, nhờ đó mà hạt giống Phật trong Ngài ngày càng chớm nở. Năm Ất Tỵ (1965), một hôm gia đình Hòa Thượng có đám giỗ, được sự quan lâm chứng minh của cố Hòa Thượng Thích Thiện Chí, trú trì chùa Quang Bảo gần nhà Ngài. Vì từ thuở nhỏ Hòa Thượng đã thích gần gủi với các vị xuất gia và đặc biệt là rất thích cái đãy xách y của các vị này, nên Ngài luôn lân la với đãy xách y của cố Hòa Thượng và muốn được mang nó. Thấy chú bé thích thú như vậy, cố Hòa Thượng Thích Thiện Chí liền hỏi rằng: “con có muốn đi tu không?”, chú bé liền hỏi lại rằng: “ đi tu là làm chi ạ?”. Hòa thượng chỉ trả lời đơn giản: “đi tu là hằng ngày được mang đãy xách y này”. Nghe vậy, không ngần ngại chú bé trả lời là: “dạ thích ạ”. Từ đó, chú bé Trần Bá Không theo chân cố Hòa thượng Thích Thiện Chí vào chùa xin được xuất gia, để chỏm làm chú tiểu. Dù bao lần cha mẹ của Hòa Thượng đến chùa khuyên bảo trở về nhà nhưng Hòa Thượng đều từ chối không chịu về. Tuy rất thương con, nhưng song thân vẫn chìu theo ước nguyện của con nên để Ngài ở lại chùa tu hành. Thời gian thấm thoát 7 năm theo thầy hành điệu, hằng ngày tụng kinh lễ Phật, học tập kinh luật, song song với chương trình thế học. Năm Nhâm Tý (1972) sau khi học hết lớp đệ tứ, vì ở trong vùnglúc đó không có trường đệ nhị cấp, cho nên cố Hòa Thượng Thích Thiện Chí đã gửi Ngài vào Tổ Đình Thuyền Tôn để có cơ hội theo học chương trình đệ nhị cấp. Ở đây, Hòa thượng được sự che chở của Đức Cố Đệ Nhị Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên.

Năm Quý Sửu  (1973) đại giới đàn Phước Huệ ở Nha Trang khai mở, nhân dịp này Đức Cố Đệ Nhị Tăng Thống dạy Hòa thượng trở về chùa Quang Bảo đảnh lễ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Chí để được thọ giới Sa di. Nhưng sau 3 lần về đảnh lễ mà cố Hòa thượng Thiện Chí đều khước từ và khuyên nên vào Tổ Đình Thuyền Tôn để nương uy đức của Ngài Cố Đệ Nhị Tăng Thống mà tu tập. Lúc bấy giờ, Đức Cố Tăng Thống đã 96 tuổi nên không thu nhận thêm đệ tử, Ngài liền dạy Hòa thượng đến đảnh lễ Thầy Giám tự Tổ Đình Thuyền Tôn lúc bấy giờ là Hòa thượng Thích Thiện Tấn làm Bổn sư, và được Hòa thượng Thích Thiện Tấn hoan hỷ ban pháp danh Nguyên An tự Viên Diệu, đồng thời được vào Nha Trang để thọ giới Sa di ở giới đàn Phước Huệ. Từ đây Hòa thượng theo hầu Bổn Sư ngày đêm chuyên cần tu học,và một lòng một dạ với Bổn sư gắn bó không rời dù trãi qua bao gian lao khổ cực. Vào tháng 12 năm Bính Thìn (1976), Hòa thượng được sự cho phép của Đức Cố Đệ Nhị Tăng Thống và Hòa thượng Bổn sư vào Sài Gòn thọ Tỳ kheo Bồ Tát giới ở giới đàn chùa Ấn Quang do Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Đường Đầu Hòa Thượng, từ đây giới thể châu viên, dự vào hàng Chúng Trung Tôn, Hành Như Lai sứ, Tác Như Lai sự.

Thế rồi thời cuộc biến động, xã hội bất an vào năm Giáp Tý (1984) Hòa thượng đã vượt biển qua Philippine, đến năm Ất Sửu (1985) Hòa Thượng được Canada tiếp nhận định cư.

Từ ngày được định cư ở xứ lạ quê người, hình ảnh ngôi chùa Việt, đặc biệt là ngôi Tổ Đình Thuyền Tôn – Huế, nơi đã nuôi dưỡng và vun bồi pháp thân huệ mạng luôn luôn hiện lên trong ký ức của mình. Vì vậy, dù được Hội Phật Giáo chùa Quan Âm Montreal cung thỉnh giữ chức vụ trú trì, nhưng tâm nguyện của Ngài luôn mơ ước xây dựng một ngôi Tam Bảo Thuyền Tôn nơi xứ lạnh tình nồng này, để hoằng truyền Phật pháp làm rạng danh đức của chư Tổ.

Ban đầu Hòa thượng mua một ngôi nhà ở đường Ouimet thành phố Saint Laurent để làm nơi sinh hoạt phật sự, đặt tên chùa Thuyền Tôn. Sinh hoạt ở đây được một thời gian nhưng vì điều kiện địa lý và pháp lý không thuận tiện và nhu cầu của Phật tử ngày mỗi đông, nên Hòa thượng muốn tìm chỗ rộng hơn. Sau đó,  chùa Thuyền Tôn được chuyển đến địa chỉ mới ở số 6685 đường Alma thành phố Montreal, tỉnh Quebec, sinh hoạt Phật sự đến bây giờ. Đồng thời trong khoảng thời gian này, Hội Phật Giáo chùa Bồ Đề Quebec đã cung thỉnh Hòa Thượng về lãnh đạo tinh thần cho Hội. Trên vai trò này Hòa Thượng đã vận động và tạo mãi một cơ sở tọa lạc tại 2156, ave de la pagode, thành phố Quebec để làm chùa  Bồ Đề và đảm nhiệm chức vụ trụ trì.

Năm 1992 GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada được thành lập, Hòa Thượng được đại hội tín nhiệm và cung cử giữ chức Tổng vụ trưởng vụ Cư sĩ của Giáo Hội liên tục cho đến hôm nay.

Khi giới đàn Đôn Hậu được tổ chức vào mùa An Cư năm 1993 tại chùa Phật Quang, thành phố Edmonton, Aberta, Canada, Hòa Thượng được cung thỉnh làm đệ ngũ tôn chứng, đứng trong hàng thập sư trao truyền giới pháp, tiếp dẫn hậu lai, báo phật ân đức. Hòa thượng ý thức được sứ mệnh của người con Phật trong thời hiện đại, cần phải có cơ sở rộng lớn để phát triển nền đạo học của Tổ tông tại xứ người, nên đã lặn lội tìm nơi thiết lập đạo tràng. Hơn nữa, lời dạy của Tổ: “truyền trì diệu lý, diễn xướng chánh tông” là điều mà tâm nguyện luôn luôn canh cánh bên lòng. Năm Đinh Hợi (2007) Hòa Thượng đã mua một sở đất rộng 185 acer (khoảng 85 hecta) thuộc thành phố Cornwall tỉnh Ontario, để tạo dựng nơi đây ngôi Tổ Đình Thuyền Tôn hải ngoại, làm một trung tâm văn hóa Phật giáo, xiễn dương Phật pháp, vừa làm chỗ tu học và An cư Kiết hạ của Tăng Ni, là nơi đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu học Phật của phật tử khắp nơi, đồng thời để báo đáp Tổ đức trong muôn một.

Dự án đã đi vào bước đầu xây dựng, dầu thân đang mang nhiều trọng bệnh, không biết vô thường xãy đến khi nào, nhưng tâm nguyện thì luôn kiên cố, dù chỉ còn chút sức tàn. Ngài vẫn kiên trì xây dựng Tổ Đình mong để lại một thành quả có ý nghĩa cho đạo pháp, cho văn hóa Việt Nam nới xứ người, nhưng “nhân nguyện như thử, thiên lý vị nhiên”.

Nào ngờ bệnh cũ tái phát, sức khỏe ngày mỗi yếu dần, Hòa thượng đã xả bỏ báo thân vào lúc 22 giờ ngày 18 tháng 8 năm 2015, nhằm ngày mồng 5 tháng 7 năm Ất mùi, hưởng thọ 62 tuổi đời, 40 giới lạp. Mặc dầu Hòa Thượng đã trở về cảnh giới Phật, nhưng công đức và hạnh nguyện của Ngài vẫn mãi lưu lại với đời. Ngài là tấm gương sáng về chí nguyện kiên cường một lòng phụng vị đạo pháp, đáng để Tăng Ni phật tử noi theo.

Nam Mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế Tông Liễu Quán Pháp Phái Đệ Thập Thế Khai Sáng Thuyền Tôn Hải Ngoại Tự Viện Chủ Húy Nguyên An Tự Viên Diệu Hiệu Huyền Đức Hòa Thượng Giác Linh Thùy Từ Chứng Giám.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2013(Xem: 7894)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9095)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14632)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6772)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5409)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4920)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5320)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6146)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5978)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9439)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567