Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời và hành trạng

22/08/201509:15(Xem: 9025)
Cuộc đời và hành trạng


HT Thich Tam Chau


Cuộc đời và Hành trạng
Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(95 thế tuế. 74 Hạ Lạp)
 
Kẻ hèn này lòng chân thành đã viết:
Ngài Trí Quang, bậc đại sĩ thượng thừa
Ngài Thiện Minh, cõi trần thế đủ chưa
Ngài Huyền Quang, kế nghiệp ba đời Tăng Thống
Đức Đệ Nhất, thượng Tịnh hạ Khiết
Đức Đệ Nhị, thượng Giác hạ Nhiên
Đức Đệ Tam, Đôn Hậu tịch biên
Và đã viết:
Bồ Tát Quảng Đức, hiện thân cứu đạo
Thánh Tử Tăng Ni, nung lửa lò cừ
Phật Tử Tín đồ, chấn động thái hư
Hoa sen nở ngát bùn lầy quện cáu
Một kiếp nhân sinh ba vạn sáu
Những tưởng rằng đằng đẵng trăm năm
Thấm vào đâu thượng báo hạ hoằng
Lòng nung nấu bản hoài tâm nguyện
Nếu không viết
Cuộc đời và hành trạng Hòa Thượng Thích Tâm Châu
95 năm đại thọ, tròn thế kỷ cơ cầu
74 năm Hạ Lạp, viên dung vô quái ngại
Thì thà không có đôi tay cầm bút
Không có cái đầu hướng đạo tư duy
Không có tấm lòng chắt lọc nghĩ suy
Sống phơi cát bụi trơ trơ sỏi đá
Xin chắp tay, ngưỡng vọng Giác Linh Ngài Thượng Thủ
Xin chân thành, hướng về Kim Bảo Đài Từ Quang
Nghe kệ kinh chuông mõ trầm bỗng ngân vang
Tiễn Ngài đi trên đường về Phật độ
Cuộc đời Ngài đâu cần ghi để nhớ
Hành trạng Ngài đâu cần khắc để lưu
Một ngôi sao gắn trên cánh Vô Ưu
Vốn miên viễn mọi không thời rạng chiếu
Đất Ninh Bình sản sinh bậc kiệt xuất
Năm 1954, bỏ Bắc vào Nam
Di cư ư, không phải, bởi không chấp nhận sắc đỏ thiết ngàm
Năm 1963, vô minh ập phủ Đạo Vàng
Chịu chết ư, dễ gì, Phật Giáo sống thì Dân Tộc mới sống
Những cái câu đẹp như sơn son thiếp lộng:
"Dân Tộc còn thì Phật Giáo còn"
"Phật Giáo còn thì Dân Tộc còn"
2000 năm lịch sử Phật Giáo, vàng ngọc không hơn
5000 năm lịch sử Dân Tộc, kim ngân không sánh
Dân Tộc và Đạo Pháp, tương lân để sống
Đạo Pháp và Dân Tộc, thấm nhuận thăng hoa
Hễ ngược lại là suy vong biến thái
Ngài và những bậc thượng thừa thuở ấy
Ngồi trên lửa nhưng vẫn bình chân như vại
Ngồi trong cùm nhưng xiềng xích vỡ toang
Cả thế giới đều ngưỡng phục kinh hoàng
Cả nhân loại đều giật mình rúng động
Tôi muốn nhắc cộc mốc này
Để Phật Giáo Việt Nam hôm nay và ngày mai phải biết
Nếu 63 mà đã bị chết tiêu ma
Nếu 63 mà bị hủy diệt Ta Bà
Thì quý vị không còn đâu mà đẩy đưa nhân ngã
Và tôi xin nhắc
Lê Long Đĩnh kê lên đầu róc mía
Nào đáng gì so với Pháp Nạn 63
Bởi Long Đĩnh hôn quân mượn thú tiêu pha
Còn 63 là cả âm mưu sách lược tiêu diệt Phật Giáo
Thế thì 75, chuyện gì kia chứ?
Ố ồ cộc mốc, cả nước đỏ au
Vận mệnh Dân Tộc, nói nữa chi đau
Vận mệnh Tổ Quốc, nói sao cho hết
40 năm, nát con tàu thống thiết
40 năm, nát con tàu trầm kha
Niềm đau sỉ nhục đến Tổ Tiên lịch sử Ông Cha
Và di họa đến cả những đàn em thế hệ
Ngài Tâm Châu ơi
Sao trong lúc ngưỡng vọng Giác Linh Ngài kính lễ
Mà lại viết những lời khó xúc động bi thương
Bởi Ngài nói:
"Cả cuộc đời tôi phụng sự cho Quê hương
"Cả cuộc đời tôi dấn thân cho Đạo Pháp
"Tôi đã hơn 90 rồi mà ông còn thôi thúc
"Tôi từng nói hễ mỗi lần qua Úc
"Phải dành thời giờ để ghé thăm
"Để gặp và ngưỡng mộ MG"
Ngài ơi, chết con rồi, muôn ngàn lần không dám
Và chính Ngài đã gởi những tác phẩm biếu tặng
Nào thơ văn, nào những CD diễn ngâm
Của bậc siêu tuyệt thượng túc uyên thâm
Nhạn quá trường không, thái hư lưu tích
Kính tiễn Ngài đi, về thăm Phật quốc
Ta Bà kham nhẫn, hồi nhập độ sinh
Vì Tam đồ Lục đạo, dù khổ quên mình
Vì nhân gian trần thế, dù đau nào thấm
Mượn tấm thân ngũ ấm
Vào sinh tử rong chơi
Mang ánh đạo cứu đời
Bản hoài hoằng thệ nguyện.
 
Úc Châu sáng ngày 22-8-2015
Tiểu tăng Thích Nhật Tân
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8094)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8185)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5164)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37440)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6235)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6183)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5822)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5712)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5985)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]