Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dâng lời sám hối Ân Sư

13/08/201500:58(Xem: 7963)
Dâng lời sám hối Ân Sư

 

Vào ngày 11/8/2015 nhằm ngày 27/6/Ất Mùi, chư tôn đức Tăng Ni ở hải ngoại đã câu hội về Viện Truyền thống Minh Đăng Quang để trang nghiêm làm lễ truy điệu và cung tiễn Kim quan của Hòa thượng Pháp sư.

Sau đây là những hình ảnh đã ghi lại được:

image5 Copy

image6 Copy

image8 Copy

image3 Copy

image1 Copy

image10 Copy

image2 Copy

htminh hieu2
DÂNG LỜI SÁM HỐI ÂN SƯ

 

            Nam Mô Tân Viên Tịch Đại Lão Hòa Thượng Pháp Sư Thượng GIÁC Hạ NHIÊN, Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới Chứng Giám.

          Từ xứ sở Nam Bán Cầu xa xôi đất nước Úc Châu, toàn thể Tăng Ni Thiện Tín Giáo Hội Phật Giáo Khất Sĩ chúng con vô cùng kính tiếc, đau đớn hướng về phương trời Bắc Mỹ, bang California, Hoa Kỳ, nơi di ảnh và kim quan Tôn Sư chúng con đang tại vị, chí thành ngưỡng vọng Giác Linh.Kính lạy Ân Sư, xin Người phát lòng đại bi cho con được dâng lời sám hối sau cùng.

          SƯ PHỤ! Hai tiếng thân thương con xin gọi, dù ngôi cao Người ngự trị từ xưa.  Danh tiếng PHÁP SƯ mọi xưng tán hóa dư thừa, ở trong tâm con Người mãi mãi là người Cha, người Thầy bao dung từ ái.  Đến trước người con trở nên nhỏ dại và gây bao lầm lỡ vụng về.  Thật đáng thương những đứa trẻ u mê.  Sư Phụ xoa đầu, thứ tha cho đám conmãi vẫy vùng trong vũng bùn danh lợi.

          Nhớ năm xưa, đầu thập niên 70, những tháng năm mùa Hè lửa cháy, chúng con bốn anh em từ miền Trung khổ hải, dắt dìu nhau vào nấp bóng Tòng Lâm.  Ở ngôi vị chí cao SƯ PHỤ thật ân cần, thu nhận hết mà không hề phân biệt.  Giửa biển đời ngàn trùng sóng cả, giửa trần ai cháy bỏng gian tham, Sư Phụ của con danh cao vòi vọi ngút ngàn, hai tiếng PHÁP SƯ Người rống lên âm vang sư tử.  Uy nghi, dõng dạc mà từ bi hà hải, giửa trần gian thắp sáng Ánh Nhiên Đăng. 

Nhớ thuở xưakhicòn làm Điệu, Huệ, tuổi nhỏ của chúng con muôn điều vụng dại, ngàn thứ lỗi lầm, chập chững tập dần nương náu Tịnh Xá Trung Tâm, có khi thất thố oai nghi, bị các Đại Đức quyết tâm cho về chốn cũ.  Sợ hãi muôn trùng, hoang mang tột độ, chỉ có SƯ PHỤ lời dạy sau cùng: “Tuổi trẻ non dại, không sao tránh khỏi nông nỗi sơ tâm, xét lại căn tu hạt giống nẩy mầm, nên cho PHÁP SƯ bao dung tất cả.”

          SƯ PHỤ ơi!  Nhờ có thế, những sư tử con tập dần tiếng rống, noi bước Cha lành bỏ hẳn mặc cảm cừu non.

          Rồi sau năm 75, dòng đời đổi thay vạn nẻo, SƯ PHỤ dấn thân vào thế giới bao la, đệ tử chúng con thêm lần nữa lạc lối bôn ba.TừđấtHoakỳ  Pháp âm Người phủ khắp năm Châu, cho hàng vạn người thấm nhuần ơn mưa móc.  Đệ  tử con y lời xưa Thầy dạy học, trôi theo dòng đời lưu lạc xứ Úc Châu.  Hai mươi năm cách biệt mới lại gặp nhau, đứa con xưa nay trưởng thành thật sự.  SƯ PHỤ vẫn yêu thương trao cho hành trang viễn xứ, đây Lý Tưởng rạng ngời thuyết pháp độ sinh, bổn phận con nơi nàyđấtÚc,5 Tiểu Bang phải mở bày giáo nghĩa, thànhlậpđạotrànghànhđạokhắptrờiTây.

          Hơn 15 năm hoằng pháp nhớ mãi lời Thầy, vâng lời Sư Phụ dạy con ngỡ mình hay, kiến lập đạo tràng Minh Quang trang nghiêm hùng vĩ, nhữngtưởng làm vậy đã báo đáp ơnvàvuilòngThầytổ, nên ngã nhơn nổi dậy tập khí che mù... Bao nhiêu lần trách móc sao Sư Phụ không làm Chùa to Phật lớn, sự nghiệp nước ngoài chỉ có căn nhà nhỏ đơn sơ... Sao Sư Phụ cứ mãi đi, cứ mãi nói không dừng, mặc cho tấm thân tứ đại mỗi ngày thêm khô kiệt!

          SƯ PHỤ vẫn khen con mỗi lần gặp gỡ, thuyết pháp, hay khai mở Đạo Tràng làm rạng rỡ sư môn... Nhưng than ôi!  Giờ phút này đây con dâng cả tâm hồn cả tấm thân với muôn ngàn thống hối... SƯ PHỤ ơi!  Bậc Thượng Sĩ xuất trần sá gì với trần gian được thua vinh nhục, lòng Đại Bi, Người là Bồ Tát vào đời.  Sư Phụ ra đi bỏ con trẻ chơi vơi: 19/6 Ngài dự tri thời chí.

 Có bao người đã làm nên điều ấy, nếu không là Bồ Tát hóa viên dung?

          Bài thơ của Thiền Sư xưa con tụng:  “Nhạn quá trường không, Ảnh trầm hàn thủy, Nhạn vô lưu tích chi ý, Thủy vô lưu ảnh chi tâm”, còn Sư Phụ con ngàynay:    

          Chim trời sãi cánh dặm không,

          Bóng chìm đáy nước âm thầm vô ngôn.

          Thong dong giửa chốn bụi hồng,

          Nước chim tự tại sắc không hững hờ...

          Kính lạy Giác Linh Ân Sư,

Danh lợi sắc tài trần gian con nắm bắt, Sư Phụ mĩm cười: được lắm ráng nghe con... Cao viễn... Thậm thâm...Giờ tỉnh hiểu ra thì con đã không còn: Người tự tại khứ lai vào NHẤT THỂ...

          Văn tự nghèo nàn, ngữ ngôn rỗng tuếch, chỉ còn lại cơn đau, niềm thống hối vạn thuở không phai, dù con biết nơi đâu Sư Phụ ngự Liên Đài.... đừng tha thứ đứa con vô vàn bất hiếu...để con đau-càng đau thêm thấu hiểu. Sanh diệt ngàn đời chưa trả hết nghĩa ÂN SƯ!

          Chí thành đảnh lễ, dâng lời SÁM HỐI tiễn biệt SƯ PHỤ kính yêu của riêng con.

 

                                                          Bất Hiếu Tử Tỳ Kheo Minh Hiếu kính lạy.

 

            

Ý kiến bạn đọc
12/08/201515:52
Khách
Cầu giác linh Hòa Thượng cao đăng về Phật Quốc
Nam mô Tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6146)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
09/04/2013(Xem: 8057)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 6625)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6061)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 6290)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 7046)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 7089)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 9180)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 5829)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 10416)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567