Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Ni Trưởng Như Hoa

10/04/201311:09(Xem: 7748)
Tưởng niệm Ni Trưởng Như Hoa

94nitruongnhuhoa


(bấm vào hình dowload hình khổ lớn, có thể in ra giấy để thờ)

NI TRƯỞNG THÍCH NỮ NHƯ HOA
( 1925 – 2006 )

I . THÂN THẾ:

Ni Trưởng họ Hứa húy Thị Hai, sinh ngày 07 / 07 năm Ất Sửu (1925 ), tại làng Tân Nhựt, tỉnh Chợ Lớn – Sài Gòn.

Thân phụ là ông Hứa Khắc Lợi; Thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Năng; Gia đình có 02 người con, Ni Trưởng là chị cả và người em trai là Hứa Khắc Tuấn.

Cả nhà gồm 04 người, sau khi hiếu nghĩa vẹn toàn, tất cả đều xả tục xuất gia, trở thành các bậc Chơn Tăng. Cụ ông là Đại lão Hòa Thượnh thưọng Thiện hạ Hòa, nguyên là Viện Chủ Tổ Đình Ấn Quang, một bậc Cao Tăng Thạc Đức trong thời cận đại; Cụ bà là Sư Bà Như Nghĩa; Người em trai là Đại Sư Tịnh Đức, vị Giáo Thọ lỗi lạc của Phật Học Đường Phước Hòa tỉnh Trà Vinh, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt, nhưng Đại Sư mất sớm khi tuổi đời vừa mới 29.

II . XUẤT GIA & HỌC ĐẠO:

Ni Trưởng xuất gia học đạo với nhiều nhân duyên thuận tiện,vào Thập niên 30, khi phong trào Chấn Hưng Phật Học ra đời, rất nhiều Phật Học Đường mở khắp nơi.

Năm Đinh Sửu ( 1937 ), vừa tròn 12 tuổi, Ni Trưởng được gia đình cho xuất gia thọ giáo với Hòa Thượng Viện Chủ Chùa Huê Lâm; cầu pháp với Hoà Thượng thượng Thiện hạ Hòa, Pháp danh Diệu Liên, tự Chơn Diệu, hiệu Như Hoa, đời thứ 10 thuộc Thiền phái Liễu Quán. Sau khi xuất gia, Ni Trưởng tu học tại Chùa Huê Lâm - Chợ Lớn Sài Gòn.

Năm Canh Thìn ( 1940 ), Ni Trưởng theo học tại Chùa Giác Linh ở An Hòa, Cái Tàu Hạ, Sa Đéc.

Năm Tân Tỵ ( 1941 ), Ni Trưởng theo học tại Ni Trường Phật Học Kim Sơn – Gia Định; cũng trong năm này, Ni trưởng thọ giới Sa-di Ni tại đây. Ni Trưởng là một trong những Học Ni nhỏ tuổi nhất của Ni Trường Kim Sơn, với căn bản Phật Pháp được un đúc từ khi còn tấm bé.

Năm Nhâm Ngọ ( 1942 ), Ni Trưởng được Sư Bà Kim Sơn gởi ra Ni Viện Phật Học Diệu Đức - Huế tham học . Một năm sau ( Qúy Mùi ,1943 ), Ni Trưởng lại trở về Ni Trường Phật Học Kim Sơn và được thọ giới Thức Xoa tại đây.

Với ý chí cầu học không ngừng, năm Giáp Thân ( 1944 ), Ni Trưởng cùng một số Pháp hữu đến cầu học với Hoà Thượng Huệ Quang ở Chùa Long Hòa - Tiểu Cần - Trà Vinh.

Năm Đinh Hợi (1947 ), Ni Trưởng thọ Tỳ Kheo Ni giới tại Đại Giới Đàn Thiên Bửu Hạ - Ninh Hòa - Khánh Hòa , do Hòa Thượng Phước Huệ Chùa Hải Đức - Nha Trang làm Đàn Đầu; và cũng trong dịp này, Giới Đàn chuyển về truyền Bồ Tát giới và Nhiên hương tại Chùa Hải Đức – Nha Trang . Pháp danh Chơn Hiệu được Hoà Thượng Phước Huệ Chùa Hải Đức cho trong khi thọ giới tại Đại Giới Đàn này.

Năm Canh Dần ( 1950 ), Ni Trưởng trở về tu học tại Chùa Huê Lâm và Ni Trường Phật Học Nam Việt Từ Nghiêm.

Năm Tân Mão ( 1951 ), Quý Hòa Thượng trong Ban Giám Đốc Phật Học Đường Nam Việt Chùa Ấn Quang khai giảng Ni Trường Dược Sư, Ni Trưởng được theo học tại đây. Năm Đinh Dậu ( 1957 ), Ni Trưởng được đề cử chức vụ Tri Sự Ni Trường Dược Sư.

III . HÀNH ĐẠO:

Với đức tính ôn hòa, nghi dung khiêm tốn, Ni trưởng tiêu biểu cho các bậc tiền bối của Ni giới Miền Nam vào thời hậu bán thế kỷ 20 . Sau khi thọ Đại giới năm Đinh Hợi, Ni Trưởng cùng với Ni Trưởng Như Liên khai sơn Chùa Vạn Thạnh – Nha Trang; Chùa này nguyên là Miếu Vạn Thạnh. Đây là ngôi Chùa Ni đầu tiên ở Nha Trang, và được xem là bước khởi đầu cho công cuộc hoằng hóa của Ni Trưởng . Lãnh Chùa xong, nhị vị Ni Trưởng độ một số Ni Chúng . Thời gian sau, Ni Trưởng một mình trở vào miền Nam tiếp tục tham vấn tu học .

Năm Đinh Dậu ( 1957 ), sau khi dư khóa tu học tại Ni Trường Dược Sư, Ni Trưởng trở lại Chùa Vạn Thạnh, giảng dạy Phật pháp cho Ni Chúng tại Đây.

Năm Qúy Mão ( 1963 ), Ni TRưởng cho trùng tu Chùa Vạn Thạnh để Ni Chúng có nơi tu học.

Năm Bính Ngọ ( 1966 ), Ni Trưởng xây dựng trường Bồ Đề Trí Đức và Bồ Đề Nguyệt Quang – Nha Trang làm cơ sở giáo dục cho con em Phật Tử . Cũng trong thời gian này, Ni Trưởng được đề cử làm Giới Sư cho các Đại Giới Đàn Kiều Đàm tổ chức tại Trung Ương Ni Bộ Từ Nghiêm – Sài Gòn.

Năm Kỷ Dậu (1969 ), Ni Trưởng đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Ni Bộ Bắc Tông, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhiệm Kỳ III ( 1969 – 1973 )

Năm Canh Tuất (1970 ), Ni Trưởng giữ chức Giám Viện Trung Đẳng Phật Học Chuyên Khoa tại Ni Viện Hoa Quang – Phú Nhuận ; đồng thời nhận trách nhiệm Giám Học Phật Học Ni Viện Từ Nghiêm (1970 – 1976 ). Cũng trong năm này, Sư Bà Như Hạnh trụ trì Chùa Phật Tánh Trà Ôn, hiến cúng Chùa Phật Tánh và ký thác đệ tử cho Nì Trưởng giáo dưỡng .

Năm Nhâm Tý ( 1972 ), nhận trụ trì Chùa Viên Giác, Quận 8 – Sài Gòn; kể từ khoảng thời gian này về sau , Ni Trưởng thường được cử làm Đệ Nhứt Tôn Chứng, kiêm Điển Lễ trong các Đại Giới Đàn Ni .

Năm Qúy Sửu ( 1973 ) làm Đặc Ủy Xã Hội của Giáo Hội PGVNTN tỉnh Gia Định .

Năm Át Mão ( 1975 ), mở lớp Phật Pháp Gia Giáo tại Bồ Đề Lan Nhã - Quận 10 Sài Gòn; đồng thời được Qúy Ni Trưởng đề cử chức vụ Trụ Trì Tổ Đình Từ Nghiêm để thay thế cho Ni Trưởng Huệ Lâm già yếu.

Năm Nhâm Tuất ( 1982 ), Ni Trưởng tổ chức Lớp Học Phật Pháp Gia Giáo tại Chùa Giác Hoa - Quận Gò Vấp.

Từ năm Giáp Tý tới năm Tân Tỵ ( 1984 – 2001 ), Ni Trưởng làm Chứng Minh Thiền Chủ tại các Trường Hạ : Dược Sư, Phổ Đà, Liên Hoa, Phước Thiện, Vạn Phước.

Năm Giáp Tý ( 1984 ), Ni Trưởng làm Giáo Thọ Ni, tại Giới Đàn Nhơn Thứ, Chùa Linh Phong - ĐàLạt .

Năm Kỷ Tỵ ( 1989 ), Ni Trưởng nhận Trụ Trì Chùa Mai Sơn – Bình Chánh .

Năm Ất Hợi ( 1995 ), Ni Trưởng làm Giáo Thọ Ni, tại Giới Đàn Chùa Long Thiền Biên Hòa .

Năm Bính Tý ( 1996 ), Ni Trưởng làm Yết Ma Ni, tại Giới Đàn Minh Tánh, Chùa Thiên Phưóc - Long An ; đồng thời xây dựng Thiền Thất Hương Quang .

Năm Đinh Sửu ( 1997 ), Ni Trưởng thường chủ trì truyền giới Bát Quan Trai hàng tháng cho các Chùa Thích Ca ( Q.3 ), Bồ Đề Lan Nhã ( Q.10 ), Chùa Liên Hoa ( Bình Chánh ) .

Năm Tân Tỵ ( 2001 ),Giáo Thọ Ni cho Giới Đàn Quảng Đức tại Chùa Từ Nghiêm, đồng thời xây dựng Chánh Điện Thiền Thất Hương Quang .

Năm Nhâm Ngọ ( 2002 ), làm Hoà Thượng Đàn Đầu Đàn Thức Xoa, tại Đại giới Đàn Chùa Thiên Phước – Long An ; cũng trong thời gian này được suy cử Ủy Viên BTS Thành Hội Phât Giáo TP. Hồ Chí Minh, tham dư Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo Toàn Quốc nhiệm kỳ V, tại Hà Nội .

Tháng 11 / 2002 , làm Hoà Thượng Đàn Đầu Đàn Sa Di Ni , tại Đại Giới Đàn Chùa Thanh Long – Biên Hòa .

Năm Qúy Mùi ( 2003 ),làm Giáo Thọ và Hòa Thượng Đàn Đầu Đàn Sa Di Ni, tại Đại Gìới Đàn Diệu Hoằng , Chùa Linh Phong - ĐàLạt; làm Giáo Thọ Ni, tại Đại Giới Đàn Thiện Hòa Chùa Từ Nghiêm – TP. Hồ Chí Minh; được mời làm Cố Vấn Ban Chủ Nhiệm lớp Sơ Cấp Phật Học , tại Chùa Vạn Phước - Quận Bình Chánh – TP. Hồ Chí Minh.

Năm Giáp Thân ( 2004 ), làm Hoà Thượng Đàn Đầu Ni, tại Đại Giới Đàn Huệ Thành Chùa Long Thiền – Biên Hòa .

IV . VIÊN TỊCH :

Sau thời gian thọ bệnh, như đã “dự tri thời chí “, ngày mồng 03 tháng 05 năm Bính Tuất ( 29 / 06 / 2006 ), Ni Trưởng quyết định về lại Chùa Vạn Thạnh, nơi mà sáu mươi năm trước Ni Trưởng đã khai sơn ngôi Ni Tự đầu tiên tại TP. Nha Trang, và cũng là nơi Ni Trưởng xây Bảo Tháp an trí Hài Cốt cho Sư Bà Thân Mẫu của Ni Trưởng . Vâng theo tôn ý , các Pháp hữu và đệ tử đưa Ni Trưởng về lại chốn cũ Chùa xưa để an lạc lúc xế chiều . Với tuổi già sức yếu, thân tứ đại đã mõi mòn , biết ngày về với Phật không xa, Ni Trưởng đã dặn dò mọi việc. Ngày 26 / 06 năm bính Tuất ( nhằm ngày 21 / 07 năm 2006 lúc 7g30 sáng, Ni Trưởng đã an lành xả bỏ báo thân, tại Chùa Vạn Thạnh, TP. Nha Trang , Trụ thế 82, với 60 Hạ lạp .

Cả cuộc đời Ni Trưởng là một bài học về thân giáo. Ni Trưởng luôn thể hiện nếp sống của một Lão Ni phụng hành Bát Kỉnh, Giới đức tinh nghiêm, khiêm cung giao tiếp, từ hòa hóa độ, tiếp dẫn hậu lai,… vẫn còn hiện rõ; cùng gương tận tụy hy sinh suốt đời cho sự nghiệp đào tạo Ni tài mà Ni Trưởng lúc nào cũng canh cánh bên lòng .

Hôm nay, Ni Trưởng không còn nữa, hàng môn đồ đệ tử và những người thọ ân Pháp nhũ từ Ni Trưởng lạc lõng bơ vơ, vì đã mất đi một bậc Thầy trí đức kiêm ưu, nghiêm trì giới luật,…

“Than ôi !

Sữa Pháp mất rồi lòng con đói mãi

Biết cậy ai ngày la đêm nhắc

Biết mong ai sớm dắt tối dìu

Biết hỏi ai mở trí nguyên thần

Biết nhờ ai nuôi thân tuệ mạng. “

NAM MÔ TÂN VIÊN TỊCH LIỄU QUÁN PHÁP PHÁI ĐỆ THẬP THẾ, KHAI SƠN VẠN THẠNH NI TỰ, TỪ NGHIÊM, MAI SƠN NHỊ TỰ TRÚ TRÌ, HÚY HÚY thượng DIỆU hạ LIÊN, tự CHƠN DIỆU, hiệu NHƯ HOA TRƯỞNG LÃO TỲ KHEO NI GIÁC LINH.

Môn Đồ Pháp Quyến
Đồng kính ghi

chuavanthanh

ĐIẾU VĂN
Thượng tọa Thích Giác Thiện, viện chủ Tu Viện Phước Long.
Thượng tọa Thích Minh Trí, viện chủ chùa Phước Lâm .
Tưởng niệm Ni trưởng Thích nữ Như Hoa.

Kính bạch Chư tôn Hòa thượng giáo phẩm Phật giáo tỉnh Khánh Hòa.

Kính thưa Chư tôn Thiền đức Ban tổ chức tang lễ.

Kính bạch giác linh Ni trưởng thượng Như hạ Hoa. Viện chủ Phật Học Ni Trường Từ Nghiêm, Viện chủ chùa Mai Sơn, Viện chủ chùa Vạn Thạnh, nguyên Chánh thư ký Ni bộ Bắc Tông.

Cùng môn nhân pháp tử học đồ.

Hôm nay đất Nha Trang mây sầu ảm đạm

Biển Thái Bình sóng dậy đượm màu tang

Không gian mịt mù, gió thu biếng thổi

Cây cỏ chẳng buồn lay, mọi vật rũ cảnh như chờ người vĩnh viễn ra đi.

Kính bạch giác linh Ni trưởng,

Nơi Vạn Thạnh Ni trưởng chấn tích hóa duyên, không phải là quê hương của người sinh ra. Quê hương ấy, đất Bình Chánh, chợ Đệm là nơi chôn nhau cắt rốn , Ni trưởng là con trưởng của cố Hoà thượng Thích Thiện Hoà . Ni trưởng xuất thân trong một gia đình trâm anh thế phiệt, sớm nhận thức được thế sự là vô thường, xuất gia khi tuổi vừa mười sáu, thuận duyên trên bước đường tu học . Với đạo hạnh nghiêm minh và đức tánh từ hòa, nhã kính Ni trưởng được Tăng Ni đồng quý trọng, tài đức của Ni trưởng từng cảm hóa khắp Tây Đông, với sáng tạo tinh thông Ni trưởng từng làm Hòa thượng ni, từng làm yết ma, từng làm giáo thọ, từng làm điển lễ cho các Đại Giới Đàn . Với ngôn từ đạo hạnh, Ni trưởng từng làm giám học cho Ni trường Từ Nghiêm, Dược sư . Lời của Ni trưởng như một mũi tên thẳng về mục đích.

Ôi !

Pháp tướng oai nghi

Pháp từ thanh thoát

Giới đức kim ưu nay còn đâu !

Nơi Vạn Thạnh biển tâm dậy sóng cồn thương tiếc

Đất Nha Trang đưa tiễn bậc chân tu.

Sinh tiền Ni trưởng từng làm đạo nơi miền Nam nước Việt

Bao tòng lâm . Bao già lam . Bao lang nhã nguy nga .

Biết bao tình pháp lữ kính tiếc Ni trưởng.

Biết bao ni chúng học đồ cảm nhận ơn hóa độ.

Sao Ni trưởng không thị hiện viên tịch nơi miền Nam, chốn uy nghi vàng son một thuở, mà lại thâu thần nơi chốn biển Nha Trang ?

Có phải chăng Ni trưởng học đòi đức hạnh của Thế Tôn khi Linh Sơn Pháp hội, khi Trúc Lâm, khi Kỳ Hoàn,, khi Vương Xá kiêu sa mà Thế Tôn lại thị hiện Niết Bàn nơi Sa La song thọ . Ôi gương đức hạnh khi còn sanh tiền, Ni trưởng tam thân hóa đạo, hôm nay tịch diệt chọn nơi chốn không môn xã báo, có phải chăng bậc đại sĩ suốt đời hoằng pháp ; vô kỷ lợi tha .

Ni trưởng là bậc ni lưu mà tâm thức là bậc trượng phu đại sĩ như ngài Quốc sư Ngọc Lâm xưa là bậc thầy của thế chủ, bậc đạo sư của tông môn, suốt đời hoằng pháp lợi sanh từ lầu son phạm vũ đến cung ngọc nguy nga, nhưng đến khi thâu thần ngài lại chấn tích đến vùng cập miệt lệ sa, chọn một ngôi già lam điêu tàn sắp đỗ để tịch diệc .

Giờ đây Ni trưởng viên tịch nơi chùa Vạn Thạnh khiêm tốn này xa nơi kinh đô vàng son quý trọng, là Ni trưởng thể hiện tấm gương trong sạch của người chân tu thực học, Ni trưởng đã thể hiện bài pháp mà Đức Phật dạy trên hai mươi hai năm bằng vô ngôn “ Thị chư pháp không tướng “.

Chúng tôi đứng trước linh quang của Ni trưởng ôn lại đôi nét hành trạng của Ni trưởng mà cũng là bài thuyết pháp để chúng tôi học hạnh.

Các vị môn đồ pháp quyến của Ni trưởng Như Hoa,

Các vị đã có túc duyên sinh được làm người cụ túc,

Các vị lại được xuất gia trong giáo pháp của Như Lai

Các vị lại được bậc thầy mô phạm trượng phu Như Hoa,

Cuộc đời của Ni trưởng Như Hoa là bổn sư của các vị

Bao lời dạy dỗ, bao công hạnh là một bài pháp vi diệu.

Các vị pháp tử học đồ phải học hạnh, noi gương của thầy.

Để làm hành trang tu học cùng hoằng pháp lợi sinh thật chí đạo.

Than ôi !

Đèn thiền xao gió, trăng với lờ mây

Nét bước tượng vương nơi cửa pháp mơ màng trước gió

Tiếng kêu sư tử giữa rừng chiên đàn văng vẳng bên tai

Lẽ chăng hai sắc tướng trò chơi

Đất cửu trụ vẫn chán thân ngũ uẩn

Ngặt vì nỗi sư đồ nghĩa nặng

Trời tứ không còn khóc cảnh song lâm

Đức hạnh Ni trưởng bao lần nêu thiện chí

Gương tánh trong ngần, sóng tình bặt dứt

Xuất gia khi mười sáu tuổi xanh

Cụ túc đăng đàn khi tuổi vừa hăm bảy

Long Triều tự tầm sư thọ phái

Chùa Ấn Quang học lại kinh văn

Diệu Đức thần kinh trung đẳng dự phần

Vạn Hạnh phân khoa Phật học

Gót ni lưu khắp ta bà dạo bước

Chốn môn đình tuân giữ nghiệp gia phong

Bắc tông Ni bộ từng nêu gương thiện chí

Xóm tối ân cần tinh chuyên tu niệm

Xứng ngôi bốn chúng tôn thờ

Đáng bậc mọi người cung kính

Nào ngờ bây giờ,

Chốn song lâm mây ẩn bóng ưu đàm

Đức Thế Tôn an nhiên vào đại định

Miền thiếu thất trăng lòng gương Bát Nhã

Bậc chân tu bỗng chốc lìa trần ai .

Ôi ! thật là một nỗi đau buồn trĩu nặng tiếc thương kính quý một bậc đại sĩ ni lưu chi bảo của tòng lâm.

Tôi đọc trong kinh,

Lời kinh không nói được : “ Thị chư pháp không tướng “

Mây đi ai biết bao giờ lại

Xa cách chân trời dấu nhạn bay

Ánh lửa về đâu khi diêm tắt

Ai nghe tiếng vỗ một bàn tay

Nam mô pháp giới tạng A Di Đà Phật

Ai điếu trọng thu Bính Tuất niên

Tu viện Phước Long.

DSC00060

(Xem hình)

BAN TỔ CHỨC TANG LỄ

Chứng minh: HT. THÍCH CHÍ TÍN

HT. THÍCH THIỆN BÌNH

HT. THÍCH HUỆ QUANG

HT. THÍCH TRÍ TÂM

Phất trần :HT. THÍCH HUỆ QUANG

Chủ sám : HT. THÍCH NHƯ Ý

Cố vấn : TT. Thích Quảng Thiện

TT. Thích Trí Viên

TT. Thích Minh Thông

Chấp lệnh : HT. Thích Tịnh Nghiêm

TT. Thích Ngộ Tánh

Kinh sư : TT. Thích Nguyên Quang

TT. Thích Minh Châu

TT. Thích Thiện Vinh

TT. Thích Đức Bổn

ĐĐ. Thích Đức Thành

ĐĐ. Thích Giác Nghĩa

Ban tổ chức :

Trưởng ban : NT. Thích nữ Đạt Hương

Phó ban : NT. Thích nữ Như Chánh

NT. Thích nữ Lưu Phương

NT. Thích nữ Như Hạnh

NT. Thích nữ Như Dung

NT. Thích nữ Như Hải

Ủy viên : Ni trưởng Thích nữ Diệu Ý, ni sư Thích nữ Như Minh, ni sư Thích nữ Diệu Thanh, ni sư Thích nữ Diệu Nguyện, ni sư Thích nữ Minh Liễu,ni sư Thích nữ Huệ Như, ni sư Thích nữ Diệu Đức .

Thư Ký : ĐĐ. Thích Nhật Hiếu, ĐĐ. Thích Nguyên Thịnh, sư cô TN. Diệu Phúc, sư cô TN. Thuần Hạnh

Xướng Ngôn : TT. Thích Trí Viên, ĐĐ. Thích Chúc Minh, ĐĐ. Thích Giác Tịnh, ni sư Thích nữ Thông Thuận

Thủ quỹ : Sư cô TN. Như Tuyết, sư cô TN. Minh Hiền

Tiếp tân : TT. Thích Quảng Thiện, TT. Thích Thiện Vinh, ni trưởng TN. Lưu Phương, ni sư TN. Diệu Nguyện, ni sưTN. Huệ Như, ni sư TN. Như Minh, ni sư TN. Diệu Thanh , ni sư TN. Chất Liên, ni sư TN. Như Hân

Cung Nghinh : ĐĐ. Thích Giác Nghĩa

Trần Thiết : ĐĐ. Thích Nguyên Thành

Âm thanh – ánh sáng : GĐPT Vạn Thạnh

Tiếp lễ : Ni sư TN. Minh Liễu, ni sư TN. Diệu Vân, sư cô TN. Thông Mẫn, sư cô TN. Diệu Định, sư cô TN. Viên Tịnh, sư cô TN. Thuần Hạnh.

Dâng lễ : GĐPT Nha Trang

Vận Chuyển : Phật tử Nguyễn Quang Huy

Trật tự : TT. Thích Quảng Thiện, GĐPT Kỳ Viên

Thị giả : Sư cô TN. Huyền Diệu, sư cô TN. Diệu Châu

Hầu kim quan : Điều hành : sư cô TN Diệu Nhàn

Trai soạn : Sư cô TN. Diệu Minh ( HCM )

Hành đường : Ni sư TN. Huyền Quán, ni sư TN. Diệu Giác

Y tế : Ni sư TN. Huệ Hải

Môi trường : Phật tử Vạn Thạnh

chuavanthanh
(vào xem)

Tưởng niệm Ân Sư
(bài viết của đệ tử Như Nhật)

---o0o---

Vi tính & trình bày: Thích Nữ Như Tuyết, Thanh Phi - Thanh Hạnh - Diệu An

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 10245)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5025)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 5928)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6475)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7685)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 8963)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14312)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6637)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5287)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4809)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567