Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 360: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 10

15/07/201519:50(Xem: 13319)
Quyển 360: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 10

Tập 07

Quyển 360

 Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 10
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thọ, tưởng, hành, thức học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với sáu phép thần thông học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tánh luôn luôn xả học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật học bất tăng, bất giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thọ, tưởng, hành, thức học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với sáu phép thần thông học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tánh luôn luôn xả học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với sáu phép thần thông, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với sáu phép thần thông, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với sáu phép thần thông, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tánh luôn luôn xả, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với sáu phép thần thông, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

 

Quyển thứ 360

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/10/2016(Xem: 11971)
Tôi có người đệ tử, đi nước ngoài về tặng cho tôi một bức thư pháp có chữ Smile (mỉm cười) của Thiền Sư Nhất Hạnh. Chữ viết bằng bút lông , mực tàu trên giấy dó. Tôi rất trân quý bức thư pháp này, trong ngày luôn nhìn chữ Smile, để tập cười, tập nuôi dưỡng chánh niệm (bởi vì tôi cũng rất khó cười). Thiền Sư Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo
22/10/2016(Xem: 7069)
Tuần lễ vừa qua, tuần lễ bi thương, tang tóc khổ đau, miền Trung các Tỉnh, của quê hương Mẹ. Nước lũ dâng cao, dân không tránh kịp, nước ngập mái nhà, hoa màu tan tác, gia súc thương vong, mạng người đói rét. Ai đã từng sanh ra và lớn lên của các Tỉnh miền Trung, đều đã trải qua những cơ cực lầm than vì cuộc sống. Thiên nhiên không ưu đãi, đất đai nứt nẻ bởi mùa hè nóng bứt, ngập nước bởi những tháng lũ mưa dầm giá rét. Hằng năm phải hứng chịu cảnh lũ lụt ngập nước. Nhưng năm nay, nước lũ dâng cao quá đặc biệt, gọi là vượt kỷ lục trong lịch sử lũ lụt miền Trung. Vừa qua lại phải chịu đựng chống chọi với sự ô nhiểm của biển từ hãng thép Formosa, giờ đây lại gánh chịu nạn lũ lụt bi thương.
04/10/2016(Xem: 17076)
Trong Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Ngày Về Nguồn lần thứ 9 ngày 11/8/2015 tại Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc, Đại Tăng từ 4 châu lục đã yết ma thành tựu giao phó việc tổ chức Ngày Về Nguồn Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 10 cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada. Thừa lệnh Đại Tăng và được sự bảo trợ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada và Cộng Đồng Tăng Già tại Canada, nên chúng con mạnh dạng thừa đương việc tổ chức Phật sự thù thắng này tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, 11 Chemin Katimavik, Val-Des-Monts Quebec, J8N 5E1, Canada, trong các ngày 6, 7, 8, 9 tháng 10 năm 2016.
22/09/2016(Xem: 7535)
Tiếng chuông đại hồng sớm hôm ngân nga đồng vọng giữa núi rừng trùng điệp Bà Nà kia , thức tỉnh du khách nhoài người thức dậy trong sương sớm trên núi cao, ngồi bên tách trà nhìn về Đà Nẵng, nhìn bằng Tâm để thấy rằng con người bé nhỏ li ti như những con kiến kia đang lăng xăng hoạt động trong cõi đời này, dưới phố thị lao xao, để làm gì ? Và khi chết rồi sẽ đi về đâu ? Những nghi vấn bức thiết như thế nếu có được, cũng là từ âm thanh đồng vọng xa xăm trong nỗi nhớ của chiếc xe Hon Đa một thời leo núi, một thời dấn thân cho đời cho đạo, để cho thế đạo vững vàng không chênh vênh khúc khuỷu như nếp gấp của con đường leo núi Bà Nà.
06/09/2016(Xem: 7906)
Cố Ni Sư Pháp danh Như Ngọc, húy Nhựt Thạch, tự Diệu Ngọc, hiệu Giáo Ngôn. Thế danh Trần Thị Thạch, sanh năm Kỷ Dậu 1909, tại ấp Long Bình, làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, tỉnh Trà Vinh. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Giác (1888 - 1945), Pháp danh Như Ý, tự Mật Tri. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Như (1889 - 1971), Pháp danh Sương Lực, tự Chơn Tâm.
01/09/2016(Xem: 7662)
HT Thích Như Điển giới thiệu Đức Trưởng Lão HT Như Huệ tại Chùa Bảo Quang, Hamburg, Germany, tháng 7-2015
30/07/2016(Xem: 15962)
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957
21/07/2016(Xem: 8714)
Bốn Giáo Hội hải ngoại, Ngài là bậc niên cao nhất Tăng Ni Việt Nam hải ngoại, Ngài là bậc Lạp trưởng nhất Sinh năm 1928 tại Cần Thơ, Nam Việt Hiện trụ 2016 tại Ca-li, Hoa Kỳ 18 tuổi thọ Phương trượng Sa Di 25 tuổi thọ Tỳ kheo cụ túc Đã hoàn tấc Cao đẳng Phật học Lại tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa Hai chương trình kết lá đơm hoa Biển trí tuệ sóng triều duy thức Chỉ ngần ấy, Ngài xứng đáng đi trước
30/06/2016(Xem: 5158)
Hòa Thượng thế danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, quận Điện Bàn (nay là thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 Thân phụ của Hòa Thượng là Cụ Ông Phạm Kim Cái pháp danh Như Thế, và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Di pháp danh Như Kim, đều làm nghề Đông y. Hòa Thượng là con thứ sáu trong gia đình gồm sáu anh chị em. Sinh trưởng trong một gia đình nho học, thâm tín Phật giáo, nên lúc tám tuổi Ngài được gia đình cho vào chùa học đạo.
24/06/2016(Xem: 6198)
Hòa Nhập Ta Bà Bát Thập Tam Thượng Tôn Chánh Pháp Sáu Mươi Năm Như Như Lão Giả Như Như Thật Huệ Đắc Nào Hay Lão Chẳng Tầm Cao Tột Một Đời Thông Cửu Phẩm Đăng Soi Vạn Thuở Sáng Ngàn Năm Phật Đà Tiếp Dẫn Hương Quang Tỏa Quốc Độ Tây Phương Linh Giác Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]