Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 287: Phẩm Khen Ngợi Thanh Tịnh 03, Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 01

10/07/201518:37(Xem: 12780)
Quyển 287: Phẩm Khen Ngợi Thanh Tịnh 03, Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 01

Tập 06

 Quyển 287

Phẩm Khen Ngợi Thanh Tịnh 03
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí







 

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên năm loại mắt vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên sáu phép thần thông thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên sáu phép thần thông thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên sáu phép thần thông vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên mười lực Phật vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên pháp không quên mất vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên tánh luôn luôn xả vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên trí nhất thiết vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô sở hữu nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô sở hữu là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên quả Dự-lưu thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên quả Dự-lưu thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Vì tự tướng của ngã là không nên tự tướng của quả Dự-lưu là không, là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tự tướng của ngã là không nên tự tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là không, là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên quả vị Độc-giác thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên quả vị Độc-giác thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tự tướng của ngã là không nên tự tướng của quả vị Độc-giác là không, là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tự tướng của ngã là không nên tự tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát là không, là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói là vì ngã thanh tịnh nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tự tướng của ngã là không nên tự tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không, là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết trí thanh tịnh là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ngã vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri nên trí nhất thiết trí vô tướng, vô đắc, vô niệm, vô tri là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vô nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vô nhị thanh tịnh nên vô đắc, vô quán là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì không nhiễm tịnh nên rốt ráo thanh tịnh.

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên sắc không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên sắc không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thọ, tưởng, hành, thức không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thọ, tưởng, hành, thức không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên nhãn xứ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên nhãn xứ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên sắc xứ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên sắc xứ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên nhãn giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên nhãn giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên nhĩ giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên nhĩ giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tỷ giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tỷ giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thiệt giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thiệt giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thân giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thân giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên ý giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên ý giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên địa giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên địa giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên vô minh không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên vô minh không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bố thí Ba-la-mật-đa không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bố thí Ba-la-mật-đa không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp không nội không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp không nội không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên chơn như không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên chơn như không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên Thánh đế khổ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên Thánh đế khổ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên Thánh đế tập, diệt, đạo không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên Thánh đế tập, diệt, đạo không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bốn tịnh lự không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bốn tịnh lự không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tám giải thoát không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tám giải thoát không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bốn niệm trụ không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bốn niệm trụ không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp môn giải thoát không không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp môn giải thoát không không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên mười địa Bồ-tát không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên mười địa Bồ-tát không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên năm loại mắt không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên năm loại mắt không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên sáu phép thần thông không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên sáu phép thần thông không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên mười lực Phật không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên mười lực Phật không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên pháp không quên mất không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên pháp không quên mất không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tánh luôn luôn xả không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tánh luôn luôn xả không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên trí nhất thiết không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên trí nhất thiết không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tất cả pháp môn Đà-la-ni không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tất cả pháp môn Đà-la-ni không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên quả Dự-lưu không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên quả Dự-lưu không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên quả vị Độc-giác không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên quả vị Độc-giác không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên tất cả hạnh đại Bồ-tát không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên tất cả hạnh đại Bồ-tát không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì ngã không biên giới nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không biên giới.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói vì ngã không biên giới nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không biên giới là rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không nên rốt ráo thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ-tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói nếu đại Bồ-tát có khả năng hiểu biết như vậy thì đó là đại Bồ-tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tức rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì rốt ráo là không, không biên giới là không là trí tướng thành đạo.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà không trụ bờ bên này, không trụ bờ bên kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ-tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Như vậy là rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì duyên gì mà nói nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà không trụ bờ bên này, không trụ bờ bên kia, không trụ giữa dòng thì đó là đại Bồ-tát Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tức rốt ráo thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp tánh ba đời, bình đẳng, là trí tướng thành đạo.

 

Tập 06

 Quyển 287

Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 01

 

         Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trụ Bồ-tát thừa mà không có phương tiện khéo léo đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, khởi tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, mà dùng hữu sở đắc làm phương tiện thì rời bỏ xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Này Thiện Hiện! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, trước danh, trước tướng nên đối với pháp này, rời bỏ xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Vì sao thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này lại trước danh, trước tướng?

Phật dạy: này Thiện Hiện! thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa bám lấy danh, bám lấy tướng và bám lấy danh tướng rồi đắm trước Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì không thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã; vì vậy họ rời bỏ xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa nhưng nếu không dùng phương tiện khéo léo đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này bám lấy danh, bám lấy tướng và bám lấy danh tướng rồi dựa vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà sanh kiêu mạn, thì không thể chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Do đó, họ rời bỏ, xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này không bám danh tướng, không khởi đắm trước, không sanh kiêu mạn thì có khả năng chứng đắc thật tướng Bát-nhã. Nên biết, hạng người này gọi là không rời bỏ xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Ngài khéo vì chúng đại Bồ-tát mà đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, khai thị, phân biệt sự trước và không trước tướng.

Lúc bấy giờ cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Khi đại Bồ-tát hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì thế nào là trước tướng và không trước tướng?

Thiện Hiện đáp:

Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu không có phương tiện khéo léo, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đối với sắc cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với nhãn xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với sắc xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với nhãn giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với nhĩ giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tỷ giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với thiệt giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với thân giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với ý giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với địa giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với vô minh cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp không nội cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với chơn như cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với Thánh đế khổ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với thánh đế tập, diệt, đạo cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với bốn tịnh lự cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tám giải thoát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với bốn niệm trụ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp môn giải thoát không cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với mười địa Bồ-tát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với năm loại mắt cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với sáu phép thần thông cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với mười lực Phật cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp không quên mất cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với tánh luôn luôn xả cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với trí nhất thiết cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với quả Dự-lưu cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với quả vị Độc-giác cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp quá khứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không; đối với pháp vị lai, hiện tại cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu không có phương tiện khéo léo, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đối với sắc cho là sắc rồi khởi tưởng chấp trước sắc, đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là thọ, tưởng, hành, thức rồi khởi tưởng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; hoặc đối với nhãn xứ cho là nhãn xứ rồi khởi tưởng chấp trước nhãn xứ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cho là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rồi khởi tưởng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc đối với sắc xứ cho là sắc xứ rồi khởi tưởng chấp trước sắc xứ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cho là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rồi khởi tưởng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc đối với nhãn giới cho là nhãn giới rồi khởi tưởng chấp trước nhãn giới, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với nhĩ giới cho là nhĩ giới rồi khởi tưởng chấp trước nhĩ giới, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cho là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với tỷ giới cho là tỷ giới rồi khởi tưởng chấp trước tỷ giới, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cho là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với thiệt giới cho là thiệt giới rồi khởi tưởng chấp trước thiệt giới, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cho là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với thân giới cho là thân giới rồi khởi tưởng chấp trước thân giới, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cho là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với ý giới cho là ý giới rồi khởi tưởng chấp trước ý giới, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cho là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc đối với địa giới cho là địa giới rồi khởi tưởng chấp trước địa giới, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cho là thủy, hỏa, phong, không, thức giới rồi khởi tưởng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc đối với vô minh cho là vô minh rồi khởi tưởng chấp trước vô minh, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cho là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rồi khởi tưởng chấp trước hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho là bố thí Ba-la-mật-đa rồi khởi tưởng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa rồi khởi tưởng chấp trước tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đối với pháp không nội cho là pháp không nội rồi khởi tưởng chấp trước pháp không nội, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cho là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh rồi khởi tưởng chấp trước pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; hoặc đối với chơn như cho là chơn như rồi khởi tưởng chấp trước chơn như, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cho là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì rồi khởi tưởng chấp trước pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đối với Thánh đế khổ cho là Thánh đế khổ rồi khởi tưởng chấp trước Thánh đế khổ, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cho là Thánh đế tập, diệt, đạo rồi khởi tưởng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đối với bốn tịnh lự cho là bốn tịnh lự rồi khởi tưởng chấp trước bốn tịnh lự, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cho là bốn vô lượng, bốn định vô sắc rồi khởi tưởng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc đối với tám giải thoát cho là tám giải thoát rồi khởi tưởng chấp trước tám giải thoát, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cho là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rồi khởi tưởng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc đối với bốn niệm trụ cho là bốn niệm trụ rồi khởi tưởng chấp trước bốn niệm trụ, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cho là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo rồi khởi tưởng chấp trước bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc đối với pháp môn giải thoát không cho là pháp môn giải thoát không rồi khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cho là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rồi khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc đối với mười địa Bồ-tát cho là mười địa Bồ-tát rồi khởi tưởng chấp trước mười địa Bồ-tát; hoặc đối với năm loại mắt cho là năm loại mắt rồi khởi tưởng chấp trước năm loại mắt, đối với sáu phép thần thông cho là sáu phép thần thông rồi khởi tưởng chấp trước sáu phép thần thông; hoặc đối với mười lực Phật cho là mười lực Phật rồi khởi tưởng chấp trước mười lực Phật, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rồi khởi tưởng chấp trước bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đối với pháp không quên mất cho là pháp không quên mất rồi khởi tưởng chấp trước pháp không quên mất, đối với tánh luôn luôn xả cho là tánh luôn luôn xả rồi khởi tưởng chấp trước tánh luôn luôn xả; hoặc đối với trí nhất thiết cho là trí nhất thiết rồi khởi tưởng chấp trước trí nhất thiết, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rồi khởi tưởng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni cho là tất cả pháp môn Đà-la-ni rồi khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cho là tất cả pháp môn Tam-ma-địa rồi khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đối với quả Dự-lưu cho là quả Dự-lưu rồi khởi tưởng chấp trước quả Dự-lưu, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cho là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rồi khởi tưởng chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đối với quả vị Độc-giác cho là quả vị Độc-giác rồi khởi tưởng chấp trước quả vị Độc-giác; hoặc đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát cho là tất cả hạnh đại Bồ-tát rồi khởi tưởng chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cho là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rồi khởi tưởng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; hoặc đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ rồi khởi tưởng chấp trước pháp quá khứ, đối với pháp vị lai, hiện tại cho là pháp vị lai, hiện tại rồi khởi tưởng chấp trước pháp vị lai, hiện tại.

 

Quyển thứ 287

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2010(Xem: 10981)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 5860)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 5363)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 7422)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 6174)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 8932)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 7247)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 13891)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 9449)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]