Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 104: Phẩm So Sánh Công Đức 2

07/07/201522:58(Xem: 14691)
Quyển 104: Phẩm So Sánh Công Đức 2

Tập 03
Quyển 104
Phẩm So Sánh Công Đức 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí




 

Vì sao? Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, nên nghĩ: Xưa kia, đức Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai khi ở bậc Bồ-tát vì thường cần an trụ cái không nội và cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát vì thường cần an trụ chơn như và pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát vì thường cần an trụ Thánh đế khổ và Thánh đế tập, diệt, đạo, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học bốn tịnh lự và bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học tám giải thoát và tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học bốn niệm trụ và bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học pháp môn giải thoát không và pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học năm loại mắt và sáu phép thần thông, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học mười lực của Phật và bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi , đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học pháp không quên mất và tánh luôn luôn xả, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni và tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học trí nhất thiết và trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai ở bậc Bồ-tát, vì thường cần tu học vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Xưa kia, khi Như Lai an trụ bậc Bồ-tát vì thường cần an trụ vô lượng pháp môn khác tùy thuận Bát-nhã-ba-la-mật-đa như uẩn, xứ, giới v.v... nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Nay đây, chúng ta vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, nên đối với pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này, cũng phải theo Phật thường cần tinh tấn, tu học, an trụ. Pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, nhất định là bậc đại sư chơn thật của chúng ta, thường cần theo học thì sở nguyện đều viên mãn. Pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, là pháp ấn chơn thật của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả quả Độc-giác, A-la-hán, Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự-lưu v.v.... Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, vì thường cần tu học, nên đã chứng quả vị giác ngộ cao tột, sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột, hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả quả Độc-giác, A-la-hán, Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự-lưu v.v… đối với pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, vì thường cần tu học, nên đã đến bờ giác, sẽ đến bờ giác và hiện đến bờ giác.

Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ ấy, nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn, hoặc lúc Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thường cần tu học; cần phải y cứ vào tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, thường cần tu học. Vì sao? Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa v.v... như thế là chỗ y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v...

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào cái không nội, thường cần tu học; cần phải y cứ vào cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì cái không nội v.v... như thế là chỗ y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào chơn như, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì chơn như v.v... như thế là chỗ y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào Thánh đế khổ, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào Thánh đế tập, diệt, đạo, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... như thế là nơi y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào bốn tịnh lự, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào bốn vô lượng, bốn định vô sắc, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... như thế là nơi y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào tám giải thoát, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... như thế là nơi y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v...

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào bốn niệm trụ, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào pháp môn giải thoát không, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào năm loại mắt, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào sáu phép thần thông, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào mười lực của Phật, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào pháp không quên mất, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào tánh luôn luôn xả, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào tất cả pháp môn Tam-ma-địa, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào trí nhất thiết, mà thường cần tu học; cần phải y cứ vào trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích, an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào vô lượng, vô biên Phật pháp khác, mà thường cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng, vô biên Phật pháp khác như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết-bàn, cần phải y cứ vào vô lượng pháp môn tùy thuận Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như uẩn, giới, xứ v.v... mà thường cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng pháp môn tùy thuận Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như uẩn, xứ, giới v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của tất cả Thanh-văn, Độc-giác, đại Bồ-tát và các trời, người, A-tố-lạc v.v....

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng thượng diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này, được bao nhiêu phước?

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý người mà trả lời. Có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... sau khi Như Lai vào Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, nên dùng bảy thứ quí báu nhất xây dựng Bảo tháp, trang trí bằng đủ các loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng v.v… tuyệt diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì hữu tình mà tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Ngoài việc này ra, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, đã dùng bảy thứ quí báu nhất để xây dựng Bảo tháp, trang trí bằng đủ các loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả châu Nam Thiệm bộ, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức phát sanh có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v..; chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Kể cả châu Thiệm bộ, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất, xây dựng Bảo tháp, và trang trí bằng đủ loại ngọc báu, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây đầy cả bốn châu, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức sanh ra có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v..; chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Cả bốn châu giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng Bảo tháp và trang trí bằng các thứ ngọc quí, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả Tiểu thiên thế giới, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v.. chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được, so với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Kể cả Tiểu thiên thế giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng bảo tháp và trang trí bằng đủ các loại quí, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả Trung thiên thế giới, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v.. chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức đã thu hoạch được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên!

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Kể cả Trung thiên thế giới, lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, đã dùng bảy thứ quý báu nhất xây dựng Bảo tháp và trang trí bằng các thứ ngọc quí, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả thế giới ba lần ngàn, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức thu hoạch được, có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Kể cả một thế giới ba lần ngàn, và giả sử các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đối với Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, dùng bảy thứ quý báu nhất, xây dựng Bảo tháp, trang trí bằng các thứ ngọc quí, tháp cao một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao xây khắp cả thế giới ba lần ngàn, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, suốt cả cuộc đời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thì sao? Các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn như thế, do nhân duyên này phước đức có được nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như Ngài đã dạy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, nên biết như thế tức là đã cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại. Giả sử tất cả các hữu tình ổ vô số thế giới trong mười phương, đối với Như Lai sau khi nhập Niết-bàn, để cúng dường Xá-lợi Phật, dùng bảy thứ rất quý báu xây dựng Bảo tháp, trang trí bằng các thứ ngọc quí, tháp cao lớn một do tuần, bề rộng bằng nửa chiều cao, xây khắp cả thế giới ba lần ngàn, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v… y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu của cõi trời, hoặc trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Thế Tôn, thì các hữu tình ấy, do nhân duyên này phước đức đã có được nhiều chăng?

Phật dạy: Rất nhiều!

Trời Đế Thích bạch: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phuc, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức có được, đối với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, có thể bao gồm chứa nhóm tất cả thiện pháp. Đó là mười thiện nghiệp đạo, hoặc là bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc là tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc là Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo; hoặc là năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc là bốn sự hiểu biết thông suốt; hoặc là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc là cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; hoặc là chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc là mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc là vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều nhiếp nhập trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế là pháp ấn chơn thật của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả Thanh-văn, Độc-giác.

Bạch Thế Tôn! Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, đều thường cần tu học, nên đã chứng quả vị giác ngộ cao tột, sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột, hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Vì tất cả Thanh-văn, Độc-giác đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, đều thường cần tu học, nên đã đạt đến bờ giác, sẽ đạt đến bờ giác và hiện đạt đến bờ giác.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh được xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì được xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo được xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả đại Bồ-tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật được thành tựu.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tất cả Độc-giác hướng Độc-giác quả xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà công đức của tất cả các đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến định Kim-cang-dụ xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà quả vị giác ngộ cao tột và Đại Bát Niết-bàn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng tuyệt diệu để cúng dường, phước đức đã tạo Bảo tháp trước kia, so với phước đức này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn vô số phần chẳng bằng một, phần toán số, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong cõi người ở châu Thiệm bộ, thì Phật bảo, Pháp bảo, Bí sô Tăng bảo trong thế gian này đều trụ chẳng diệt.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có mười thiện nghiệp đạo và thí, giới, tu thiện, tri ơn, báo ơn, cúng dường Hiền thánh.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ .

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trường giả, dòng họ lớn Cư sĩ.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Độc-giác hướng, Độc-giác quả.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có đại Bồ-tát tu Bồ-tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát-nhã-ba-la-mật-đa này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

 

Quyển Thứ 104

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6343)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 6961)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 7868)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 6829)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 11570)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 9329)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 14870)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 6630)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 14892)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 7708)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]