Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 97: Phẩm Cầu Bát Nhã 9

07/07/201516:51(Xem: 13804)
Quyển 97: Phẩm Cầu Bát Nhã 9

Tập 02
Quyển 97
Phẩm Cầu Bát Nhã 9
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của tỷ giới, hoặc pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa pháp tánh của tỷ giới, hoặc lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải pháp tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của thiệt giới, hoặc pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa pháp tánh của thiệt giới, hoặc lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải pháp tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thân giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của thân giới, hoặc pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa pháp tánh của thân giới, hoặc lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thân giới, chẳng phải pháp tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của thân giới, chẳng phải lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thân giới, chẳng phải pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của thân giới, chẳng phải lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thân giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của ý giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của ý giới, hoặc pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc lìa pháp tánh của ý giới, hoặc lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của ý giới, chẳng phải pháp tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của ý giới, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của ý giới, chẳng phải pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải lìa pháp tánh của ý giới, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của ý giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên lìa pháp tánh của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của địa giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên lìa pháp tánh của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của địa giới, hoặc pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc lìa pháp tánh của địa giới, hoặc lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của địa giới, chẳng phải pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng phải lìa pháp tánh của địa giới, chẳng phải lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của địa giới, chẳng phải pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng phải lìa pháp tánh của địa giới, chẳng phải lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của địa giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên lìa pháp tánh của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của Thánh đế khổ, hoặc pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, hoặc lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vô minh, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa pháp tánh của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của vô minh, hoặc pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc lìa pháp tánh của vô minh, hoặc lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của vô minh, chẳng phải pháp tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa pháp tánh của vô minh, chẳng phải lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của vô minh, chẳng phải pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng phải lìa pháp tánh của vô minh, chẳng phải lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vô minh, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên lìa pháp tánh của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của cái không nội, hoặc pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc lìa pháp tánh của cái không nội, hoặc lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của cái không nội, chẳng phải pháp tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của cái không nội, chẳng phải pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; chẳng phải lìa pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; chẳng nên lìa pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của chơn như, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa pháp tánh của chơn như mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của chơn như, hoặc pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc lìa pháp tánh của chơn như, hoặc lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của chơn như, chẳng phải pháp tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa pháp tánh của chơn như, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của chơn như, chẳng phải pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng phải lìa pháp tánh của chơn như, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của chơn như, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên lìa pháp tánh của chơn như mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc lìa pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải lìa pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên lìa pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên lìa pháp tánh của bốn tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của bốn tịnh lự, hoặc pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, hoặc lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng phải lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng phải lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên lìa pháp tánh của bốn tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên lìa pháp tánh của tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của tám giải thoát, hoặc pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc lìa pháp tánh của tám giải thoát, hoặc lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng phải lìa pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng phải lìa pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên lìa pháp tánh của tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nên lìa pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng phải lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chẳng phải lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chẳng nên lìa pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của pháp môn giải thoát không, hoặc pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, hoặc lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của sáu phép thần thông; chẳng nên lìa pháp tánh của năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của sáu phép thần thông mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của năm loại mắt, hoặc pháp tánh của sáu phép thần thông; hoặc lìa pháp tánh của năm loại mắt, hoặc lìa pháp tánh của sáu phép thần thông; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải pháp tánh của sáu phép thần thông; chẳng phải lìa pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải lìa pháp tánh của sáu phép thần thông. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải pháp tánh của sáu phép thần thông; chẳng phải lìa pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải lìa pháp tánh của sáu phép thần thông. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của sáu phép thần thông; chẳng nên lìa pháp tánh của năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của sáu phép thần thông mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên lìa pháp tánh của mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của mười lực Phật, hoặc pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc lìa pháp tánh của mười lực Phật, hoặc lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng phải lìa pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng phải lìa pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên lìa pháp tánh của mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của pháp không quên mất, hoặc pháp tánh của tánh luôn luôn xả; hoặc lìa pháp tánh của pháp không quên mất, hoặc lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng phải lìa pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tánh luôn luôn xả; chẳng nên lìa pháp tánh của pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên lìa pháp tánh của trí nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của trí nhất thiết, hoặc pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc lìa pháp tánh của trí nhất thiết, hoặc lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng phải lìa pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng phải lìa pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên lìa pháp tánh của trí nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa pháp tánh của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của Dự-lưu, hoặc pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc lìa pháp tánh của Dự-lưu, hoặc lìa pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng phải lìa pháp tánh của Dự-lưu, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự-lưu, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng nên lìa pháp tánh của Dự-lưu mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng nên lìa pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả mà cầu. Vì sao? Vì hoặc pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; hoặc lìa pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, hoặc lìa pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải pháp tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả; chẳng phải lìa pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; chẳng phải lìa pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả. Vì vậy nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đại Bồ-tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả; chẳng nên lìa pháp tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả mà cầu.

Quyển thứ 97

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2024(Xem: 2130)
Vào lúc 10 giờ ngày chủ nhật 21/01/2024, chùa Phổ Từ tọa lạc tại số 17327 Meekland Ave, thành phố Hayward, tiểu bang California đã trang nghiêm tổ chức Lễ Đại tường - tưởng niệm cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thiền sư Thích Nhất Hạnh - nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ, học giả, sử gia và nhà hoạt động hòa bình, đã viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, Việt Nam ngày 22 tháng 01 năm 2022. Nhằm bày tỏ lòng biết ơn đối với ân đức, tình thương cao rộng của Sư Ông Làng Mai qua nhiều năm giảng dạy thiền quán; với công trình trước tác, phiên dịch kinh sách to lớn; chùa Phổ Từ đã tổ chức Lễ tưởng niệm cố Thiền sư vào ngày 29/01/2022; ngày 30/01/2022; Lễ Chung thất - tưởng niệm vào ngày 13/3/2022; Lễ Tiểu tường - tưởng niệm vào ngày 07/01/2023 có đông chư Tôn đức Tăng, Ni và Phật tử tham dự.
07/01/2024(Xem: 1673)
Trong tận thâm tâm tôi, thầy Tuệ Sỹ là một vì sao sáng, một hiền nhân vô cùng tôn kính giữa nhân gian này. Tôi chưa từng diện kiến hay bái sư nhưng toàn tâm ý của tôi thì thầy là thầy tôi từ quá khứ xa xưa chứ chẳng phải chỉ mỗi kiếp này. Thế gian này, cụ thể nhất là với người Việt ta thì thầy là một biểu tượng của minh triết phương đông, một bậc Bồ tát “vô công dụng hạnh”. Thầy xuất thế, nhập thế với tất cả từ bi và đại dụng vì Phật pháp, vì dân tộc và vì nước non này. Thầy là một hiền sĩ phương đông với tất cả những đặc tính biểu trưng nhất và trọn vẹn nhất “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” và hơn thế nữa, trọn đời hy hiến cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh.
07/01/2024(Xem: 1454)
Trong tôi là cả một đại dương sóng dậy, sau khi đọc bài viết của anh Quảng Diệu Trần Bảo Toàn. Tôi cảm phục anh vô cùng, một trí thức đúng nghĩa, một tài năng thực thụ, một Phật tử đầy nhiệt huyết và đạo tâm. Anh đã dùng khả năng và các mối quan hệ rộng rãi của mình với các bác sĩ tài giỏi nhất để chữa bệnh cho thầy. Anh đã lo lắng chăm sóc sức khỏe cho thầy với tất cả tâm thành và khả năng của anh. Tôi ước gì được gặp anh để một lần bày tỏ sự khâm phục và cảm ơn anh.
06/01/2024(Xem: 1922)
Bậc chân tu thực chứng thì bước đi không để lại dấu vết. Có nghĩa là không lưu lại dấu vết hay tì vết gì trong tâm thức và hành xử của mình, như được nói trong kinh “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng” [1]. Tu mà không chấp nơi việc tu của mình mới thật là chân tu; chứng đắc mà không chấp nơi sở đắc của mình mới thật là chứng đắc. Đó là nói sở tri, sở hành, sở chứng của vị ấy trong việc tu tập, hành đạo; chứ trên thực tế, thân giáo và ngữ giáo của bậc tuệ đức để lại vô số kỳ tích và ấn tượng sâu đậm cho những ai được thân cận, học hỏi, thọ pháp. Hòa thượng Tuệ Sỹ là một nhà tu, một con người nhẹ nhàng đi qua cuộc đời như thế.
03/01/2024(Xem: 1766)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan. Quang lâm Chứng minh buổi lễ có Hòa thượng Thích Nguyên Trí, viện chủ chùa Bát Nhã, Santa Ana; Hòa thượng Thích Nguyên Siêu, viện chủ chùa Phật Đà, San Diego và Hòa thượng Thích Thông Đạt, viện chủ chùa Đại Nhật Như Lai, San Jose. Đông đảo chư Tôn đức Tăng, Ni và Phật tử từ nhiều thành phố ở Hoa Kỳ đã về chùa dự lễ.
30/12/2023(Xem: 3195)
Thông Bạch Lễ Chung Thất Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh Thư Ký Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVN Thống Nhất
21/12/2023(Xem: 4986)
Thoắt đã hai năm Thầy về đất Phật Hăm Ba+Hăm Bốn / Mười Hai_ Đại tường Để triêm ân cố Sư Bà viện chủ Cung nghinh Chư Tôn Đức đến Phật đường Giữ mãi trong con về những hình ảnh Đã từng làm thị giả ở bên Thầy Giọng nói tiếng cười như đang bên cạnh Ánh mắt nhìn trìu mến vẫn còn đây...
24/11/2023(Xem: 5349)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng đạo hiệu Thích Tuệ Sỹ, Húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, đời thứ 44 thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống Giáo Hội PGVN Thống Nhất, Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, đã viên tịch đúng 4 giờ chiều ngày 24 tháng 11 năm 2023 nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Phật lịch 2567, tại Phương Trượng Đường Chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Việt Nam, trụ thế 79 năm & 51 đạo lạp. Chúng con kính nguyện Giác Linh Đức Trưởng Lão Hoà Thượng tân viên tịch Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái hiện Đàm Hoa, hồi nhập Ta bà, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.
20/11/2023(Xem: 2650)
Nói đến bậc Tôn sư của chúng ta, bản thân của mỗi chúng tôi đều là học trò, và đã thọ ân giáo dưỡng của bậc Tôn sư rất là nhiều, cho nên hôm nay ngồi ở nơi đây với vị trí chứng minh cũng chỉ là Tăng sai, Tăng đã sai thì không thể không phụng hành, do đó mà tôi xin thay mặt cho chư Tôn đức tăng hiện tiền, có vài lời chia sẻ đến toàn thể Huynh đệ, cũng như các Pháp hữu, các Anh chị em GĐPT hiện diện trong và ngoài nước, cùng tất cả các Phật tử đã có duyên với Thầy, bậc Tôn sư của chúng ta.
09/11/2023(Xem: 2510)
Đức Phật dạy trong Phật giáo có bốn hội chúng là chúng xuất gia (Tỳ kheo và Tỳ-kheo-ni) và chúng tại gia (nam nữ cư sĩ). Chúng xuất gia là trưởng tử của Như Lai, sống phạm hạnh nơi chốn thiền môn, bậc thầy mô phạm thay Như Lai giữ gìn và hoằng truyền giáo Pháp. Chúng tại gia tu tập ở nhà, làm lành tránh ác, bồi công tạo phước, hộ trì ngôi Tam bảo. Nhờ hai hội chúng này mà giáo pháp của Đức Thế Tôn xuất hiện cách đây hơn 2600 năm, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]