Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn tưởng niệm

05/05/201508:18(Xem: 5490)
Điếu văn tưởng niệm


HT Thich Tinh Hanh

Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính Đảnh Lể Giác Linh Trưỡng Lão Hòa Thượng Đệ Nhị Tăng Thống  GHPGLSTG.

Kính bạch Giác Linh Ngài.

GHPGLSTG cũng như các GHPG cả trong và ngoài nước Việt Nam và Đài Loan vừa mất đi một vị cao Tăng cả đời tâm huyết hy sinh cống hiến cho giáo dục văn học Phật Giáo Việt Nam va Đài Loan. Đại sư huynh, Ngài đã sinh ra và lớn lên tại làng Phước khánh, Phan Rang, Tỉnh Ninh Thuận, Việt nam, cùng một quê hương và cũng là cháu cùa Đức Đệ Nhất Tăng Thống LSTG thượng Huyền hạ Vi. Trong gia đình chỉ vỏn vẹn hai Chị em ruột đều đồng chơn xuất gia. Chị ruột cuả Ngài là cố Sư Bà Diệu Mỹ, cách đây ba năm cũng đã viên tịch, rất an tường giải thoát, tại chùa Pháp Bảo Thủ Đức, Việt Nam.

Sinh trưởng trong một gia đình nho gia khá giả, ruộng vườn tài sản có dư, thế mà cả Sư Bà Diệu Mỹ và Ngài đều cảm nhận đời người vô thường sống nay chết mai nên Hòa thượng đã phát tâm xuất gia tu học tại Tổ Đình Sắc Tứ Thiên Hưng, Phan Rang. Hòa Thượng thông thạo Hoa Văn, Việt Văn thông suốt Phật Pháp đầy đủ giới hạnh, phạm hạnh thanh tịnh. Ngài luôn nhẫn nại, ý chí kiên trì tâm huyết dồn hết đời mình cho Đại Tạng kinh Việt nam.

Ngài đã làm một việc lớn lao qua hai ngàn năm mà ít ai hội đủ nhân duyên để làm. Cảm động nhất là suốt cả đời dạy ở Đại Học Đài Bắc, tiền lương có được đồng nào kiếm ra Ngài đều dồn hết cho sự nghiệp in ấn kinh tạng, ba mươi năm chỉ ăn gạo lứt muối mè, sống đời đạm bạc, tiết kiệm đơn giản, cần mẫn siêng năng cống hiến cho sự nghiệp Giáo duc ở Đài Loan va hòan tất Đại Tạng Kinh Việt Nam.,

Nhiều khi Ngài quá lo cho đại tạng kinh nên những mặt khác có thể có phần thiếu sót, nhưng nếu vì Đại tạng kinh mà nếu có những sơ khuyết thì cũng mong được tất cả Chư Tôn Đức, Phật Tử, tăng tục đều hoan hỷ bỏ qua. Hoặc trong thời gian điều hành GHPGLS có phần lỏng lẽo, có gặp những trở ngại chỉ vì tuổi già sức yếu.

Nhìn vào 203 tập . Đại Tạng Kinh Việt Ngừ.  Lịch sừ Phật Gíao Việt Nam sè đời đời gắn liền với tên tuồi Ngài. Chúng con dù có trài qua muôn ngàn kiếp củng khó tán thán hết được với việc làm vô giá vô lượng cùa đời Ngài...

Quảng đời còn lại của Ngài nhất là khi đức đệ nhất Tăng Thống từ giả thế gian này vào cỏi Niết Bàn Tịch Diệt. Mọi việc Ngài phải gánh vác thêm phần trách nhiệm. Vì thiếu nhân sự cọng tác, pháp đệ của Ngài thi đông năm bảy chục Tăng Ni sống ở Âu Mỹ, văn hóa kiến thức, luật lệ, lối suy nghĩ theo xã hội Âu Mỹ khác xa với thế hệ của Ngài.Thật khó tìm được có ai có cùng tư tưởng, chí nguyện hiểu hết được và đồng cảm chia sẻ với Ngài, phụ giúp Ngài lúc cuối đời. Đệ tử của Ngài thì cách ba thế hệ như Ông nội, Cha đến cháu. Thật khó cùng tuổi tác vai vế chênh lệch qua khó để mà đồng cảm chia sẻ. Nhìn lại trong sư đệ của Ngài, Tịnh Đạo tuy là pháp đệ mà tuổi đời, tuổi đạo đối với Ngài như chú mình,Thầy mình. Tôi có duyên gần gũi ở chung một phòng với Ngài suốt một tuần lễ cách đây hai năm vào dịp khánh thành Linh Sơn ở tại Kushinagar, nơi Đức Thế Tôn Niết bàn, Ấn Độ. Rồi cùng Ngài đi đến Nepal lễ khánh thành Linh Sơn ở Lumbini, nơi đức Thế Tôn đản sanh, suốt cả mấy ngày trời, giờ đây nhìn lại hình mà nhớ kính tiếc thương Ngài.

Kỷ niệm in sâu đậm nơi Linh Sơn Melbourne Úc Châu là sau chuyến đi Khánh Thành vào tháng 11 năm 2012 tại Ấn Độ và Nepal. Đầu năm, dịp Vía Bồ tát Quan Thế Âm 19 tháng 02 năm Quý Tỵ (2013) Ngài đã đến Melbourne ở lại với Tịnh Đạo Linh Sơn suốt cả ba tuần. Ngài vẫn còn thuyết pháp cho Phật tử, kể lại tiền thân Đức Phật Thích ca và Đề bà đạt đa trong những kiếp quá khứ và kiếp này, lăn đá vào chân Đức Phật. Ngài ở lại đây truyền Thập thiện, Bồ tát giới và thường gọi tôi vào hầu chuyện với Ngài, có những lúc pháp đàm Pháp Bảo Đàn Kinh, Bát Nhã…  Ngài rất hoan hỷ tâm đắc, rồi nhắc lại chuyện Sư Ông Thiên Hưng, Sư Bác Huyền Tân, là Sư Phụ của Ngài Đỗng Minh, Sư bà Đàm Hương khai sơn Diệu Ấn Tháp Chàm, Phan Rang, rồi Sư Bà Diệu Mỹ, chị ruột của Ngài, Sư Bà Diệu Ý Nha Trang rối Báy Huệ Pháp đệ Ni (gồm bảy sư Bà) …

 Điếu ấn tượng in sâu nhất là Ngài đã đích thân trao y đỏ tại Linh Son Melbourne và khích lệ tôi,  hãy nhận tấn phong giáo phẩm Hòa Thượng y theo hiến chương GHPGLS. Tôi đã nhận y đỏ Ngài cho. Thật là cảm động nhưng giáo phẩm Hòa Thượng thi tôi rất e dè, vì với chữ Hòa Thượng thật không đơn giản chút nào, không lẽ thêm lớn, ngả tướng, nhân tướng  trở thành con người “không phúc cao tâm” vì vậy mà tôi chỉ tùy thuận, đãnh lễ thầm nhận tri ân. Ngài tin tưởng tâm linh, phó thác mà tôi chẳng muốn công bố, chỉ tùy trụ xứ, tùy đạo tràng ai có mến mộ thì chia sẻ, không đủ duyên thì đành chịu.

Sở dĩ, ở trên dài dòng một chút để nói cho cạn lời thắt chặt, khắn khít với thời gian còn lại cuối đời như là Ngài muốn trao gởi điều gì...

Trong thâm tâm tôi dự định tháng 07 năm 2015 bớt việc tôi sẽ dành hết thời gian gặp và gần, trước khi Ngài từ giã uế độ cõi đời ngũ trược này.

Tất cả như điềm báo trước, Ngài cũng muốn đến lúc ra đi. Hôm tháng 11 năm 2014, mới đây. Đại Lễ Khánh Thành Học Viện ở Paris Pháp Quốc Ni Trưởng Trí Lạc mới gặp lại và bạch, kính Hòa Thượng có khỏe không? Hòa Thương có muốn ở lại thêm mười năm nữa không? Ngài yên lặng giây phút rồi lắc đầu. Ni Trưởng Trí Lạc lại cân nhắc như là nài nỉ, ý muốn Ngài ở lại lâu thêm, lại lập câu hỏi lần thứ hai, Ngài trả lời không rồi lần thứ ba và dứt khoát là không. Có lẽ vì trách nhiệm đã xong, Ngài đã ủy thác giao phó mọi việc lại cho Giáo Hội Tăng Ni đoàn Linh Sơn, tuy hiện  cũng có một vài vị chưa chịu thực thi đến nới đến chốn. Vì tâm mê mờ chưa được tỏa sáng.

Thế rồi cách đây vài tuần vào ngày 31/03/2015 Sư bà Như Thông Việt Nam gởi email có hình cho tôi, báo tin sức khỏe Hòa Thượng sa sút nhiều lắm rồi, thúc dục tôi đi ngay Đài Loan thăm Ngài, Ni Trưởng Trí Lạc ở pháp thì gọi điện thoại mỗi ngày liên tục, đốc thúc tôi đi Đài Loan mau mau, nhưng cùng vào thời điểm đang lúc tôi phải thường trực tại Úc để giải quyết công việc mỗi ngày.

Thế rồi ngày qua ngày, vô thường đến, đâu kéo dài mãi được, Ngài đã vào Niết Bàn mau lẹ vào lúc Ngọ trưa ngày 10 tháng 04 năm 2015 tại Linh Sơn Thiền Lâm Tự Đài Bắc, Đài Loan.             

                                   Than ÔI:  Non Thái,. đả nghiêng dồ.

                                                    Nước sông hồ cạn khô

                                                   Một vị sao vụt tắt

                                                   Mặt trời lặn trăng mờ

                                                   Đàn hậu học bơ vơ...

 Tám mươi hai năm trụ thế, duyên tứ đại huyễn thân đã hết, tử sinh lẽ thường, pháp tướng như thị , khổ vui như giấc mộng, vô thường thị thường, vô ngã thị chơn, vô sinh bất diệt thị Niết Bàn. chúng con biết viết gì hơn cho bút hiệu Tịnh Hạnh đời Ngài hậu học chúng con xin kính viếng:

Tịnh Tâm cống hiến cho nước Việt

Hạnh Nguyện hoàn tất Đại Tạng Kinh

Giờ đây trước di ảnh, giác linh Ngài, pháp đệ Tịnh Đạo Linh Sơn, Thành Phố Melbourne, Úc Châu, xin kính cẩn nghiêng mình đãnh lễ nguyện sẽ cùng tất cả huynh đệ hòa hợp thanh tịnh tương kính  trong tình Linh Sơn cốt nhục sẽ tiếp nối, kế thừa gánh nặng trọng trách vô cùng cao quý thiêng liêng y theo tâm nguyện của Đức Tôn Sư Huyền Vi, Đệ Nhất Tăng Thống và Ngài Đệ Nhị Tăng Thống Tịnh Hạnh hôm nay.

Kính cầu nguyện Ngài tái lai uế độ, đời ngũ trược ác thế, tiếp tục hạnh nguyện như chư Phật, Bồ tát, La hán, tiếp tục hoằng pháp, truyền đăng tục diệm,Kế vãng khai lai, Tục Phật tuệ mạng lợi ích chúng sinh và y như đại nguyện của Đức Đệ Nhất Tăng Thống Huyền Vi đã phụng sự, hy hiến cả đời

Nhất Tâm đảnh lễ Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhị Thế, húy thượng Thị hạ Viên, tự Hạnh Bị, hiệu Tịnh Hạnh, Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn Thế Giới, Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh, thùy từ chứng giám.

Linh Sơn Thành Phố Melbourne 14/04/2015

Pháp đệ Tịnh Đạo Khề Thủ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 9067)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 14588)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6749)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5397)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4899)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5308)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6122)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5970)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9411)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5021)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567