Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

- Tiểu Sử HT Tuệ Chiếu

23/01/201505:43(Xem: 5806)
- Tiểu Sử HT Tuệ Chiếu

 

 Hòa Thượng Thích-Tuệ-Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.        

Hòa Thượng sinh năm 1942 trong một gia đình Nho Giáo tại Đồ Sơn, Hải Phòng. Con của cụ ông Lưu Đắc Vân và cụ bà Hoàng Thị Chung. Hai bên nội ngoại đều Nho học, làm Hương Cả của làng, dạy học trò khá đông. Hòa Thượng  là con út trong gia đình, ngoài ra còn có một chị Cả và hai anh.


Vào năm 1945, quê hương bị chiến tranh phân tán. Theo mẹ và một số bà con vào miền Nam sống ở Sài Gòn. Sau khi thi đậu Superieur xong, năm 1952. Khi còn ấu thời nghe Miền Tây có Vị tu hành thành Phật, có nhiều điều kỳ diệu khiến nhiều người kính phục. Hòa Thượng nghe trong lòng nôn nao, xin theo mẹ đến chùa Thành Hoa xã Tấn Mỹ, Chợ Mới tỉnh Long Xuyên, bây giờ gọi là An Giang. Khi gặp vị Tôn Sư Đức Hạnh rất uy nghiêm, rồi xin thế phát xuất gia. Hoà Thượng Bổn Sư là Ngài thượng Tịnh hạ Nghiêm tu học sáu năm khổ hạnh và chín năm thiền định thật gian khổ, chịu không biết bao nhiêu thử thách gay go, cay đắng suýt vong mạng mà được đắc đạo. 


Nguyên Bổn sư là giòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 39. Còn Hòa Thượng đời 40, Thế danh  Lưu Đ. Thụy, Pháp danh Thích Thiện-Uẩn, Pháp Hiệu Hồng Liên, tự Tuệ Chiếu. 

Khi vào chùa bấy giờ học Kinh Luật chữ Hán suốt 5 năm. đến năm 1959 Vào học Phật Học Viện Biên Hòa, sau đó học thêm Văn Khoa và các khóa Như Lai Sứ Giã ở Pháp Hội. Trong thời gian 1960 dến 1963 đã đi dạy khóa Hạ chùa Phước Thạnh Long Xuyên và giảng ở Hà Tiên, Rạch Giá, Sóc Ven, Kiên Tân, Long Xuyên, Lấp Vò, Cái Dầu và Châu Đốc, Sài Gòn.

Đến năm 1963 tham gia phong trào tranh đấu lúc Phật Giáo bị chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp, bị tù khi các chùa bị tấn công. 
 

 Năm 1964 đi thành Lập Giáo Hội PGVNTN tỉnh Rạch Giá với Hòa Thượng Thích Minh Giác và các Giáo Hội Quận Châu Thành, Kiên Tân, Kiên Lương, Kiên Hưng và Hà Tiên.
 

Năm 1965 Hòa Thượng Thích Tắc Phước Long Xuyên mời về điều khiển trường Trung Học Bồ Đề An Giang và dạy taị đây suốt bảy năm từ Đệ thất đến Tú Tài. 

 Năm 1968 kiêm Giám Đốc Bồ Đề quận Chợ Mới đến năm 1970. Lúc này mời Hòa Thượng Thích  Đức Niệm làm Hiệu Trưởng. Sau đó Hòa Thượng T. Đức Niệm Đi Đài Loan học thêm. Trong thời gian này Hòa Thượng còn dạy thêm nhiều trường Bồ Đề phía Hậu Giang. 

Năm 1970, vì nhu cầu quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cần những vị Tu sĩ có khả năng làm Tuyên Úy Phật Giáo. Đáp ứng lời kêu gọi của Nha Tuyên Úy, Hòa Thượng tình nguyện vào Tuyên Úy Phật Giáo ở Sư Đoàn 21 Bộ Binh.Là Tuyên Uý Phật Giáo duy nhất xung phong vào rừng U Minh Cà Mau ở với anh em binh sĩ 3 ngày. Và cũng là người sát cánh anh em trong chiến trận mùa hè đỏ lửa để giải tỏa Bình Long, An Lộc. Lúc đó Sư Đoàn 21 Bộ Binh biệt phái yểm trợ đóng bộ Chỉ Huy tại Lai Khê. Lúc này Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi về làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV + Quân Khu 4, Thiếu Tướng Chương Zềnh Quay làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh.  Hằng tháng Hòa Thượng cùng Đại Tá Trần văn Tươi đi uỷ lạo và gắn Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh và Chiến Thương Bội Tinh cho anh em thương bệnh binh nằm các Bệnh viện Quân Y Lai Khê, Vũng Tàu, Bình Dương, Biên Hoà, Cộng Hòa Sài Gòn, Cần Thơ  v. v . . Chỗ nào gian nguy là có Hòa Thượng bên cạnh các anh em binh sĩ. 

Sau mùa Hè đỏ lửa 1972, Về làm Tuyên Úy ở Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân , Quân Khu 4. Lúc này cùng các Bác Sĩ Quân Y và Ban xã Hội Biệt Động Quân đi ủy lạo và công tác Dân Vận từ vùng Thất Sơn Huyền Bí, Rạch Giá, Sóc Ven và các Quân Y Viện Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ. 

Năm 1973 chuyển về Sở Tuyên Úy Phật Giáo của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV+Quân Khu 4, do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm Tư Lệnh. Đến giữa năm 1974 Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Sư Đoàn 7 Bộ Binh về làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Trong thời gian ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn dù ít đi ủy lạo các nơi, nhưng lại bận rộn về hành chánh, nghi lễ và chăm sóc theo dõi quý Thầy Tuyên Úy trong các Bộ Tư Lệnh Quân, Binh, Chủng của Quân Đoàn IV và Quân Khu 4 . 

Đến 30 tháng 4 năm 1975, HT là người bị bắt đầu tiên vào ngày 06 tháng 5 năm 1975 vào trại cải huấn Long Xuyên. Vì vùng này chống đối đến ngày 03 tháng 5 mới rút lui. Sau đó các Thầy Tuyên Úy và các anh em Sĩ quan, Hành chánh mới gom vào đưa xuống cần Thơ căn cứ Trung Đoàn 33 cũ. Rồi bị đưa ra Bắc ở vùng Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Tuyên Quang, Hà Nam Ninh. Tất cả là 10 trại ở miền Bắc. Dù ở tù đày khổ sai biệt xứ, nhưng vẫn gan lỳ làm lễ cho ác anh em và quy y cho nhiều người trong đó có vài anh em Thiên Chúa Giáo. Trong các Sĩ quan tù binh đã quy y, bây giờ có một người thành Đại Đức Thích Pháp Quang ở chùa Pháp Vương Virginia và các anh em cư sĩ ở rãi rác các tiểu bang. 

Trải qua mười năm tù, sức quá mòn mõi, thân hình khô kiệt, nay yếu mai đau, cho nên  cộng sản cho về đợt cuối năm 1985. 

Hòa Thượng cũng là một Giảng Sư của Giáo Hội PGVNTN ở miền Tây, là Giáo Sư các Trường Trung Học Bồ Đề Long Xuyên, Chợ Mới, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu và có lúc dạy môn Quốc Văn trường bên Thiên chúa Giáo ở Cà Mau lúc ở Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Do cha Tuyên Úy Cà Mau mời.   

Năm 1995, Hòa Thượng  đến định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục công cuộc hoằng pháp ở các nơi như Virginia, North  Carolina, Georgea, Florida, Connecticut, Massachusetts, Lousiana, Arkansas, Texas, Oklahoma, Seattle, California.  

Hòa Thượng  từng trụ trì chùa Huệ Quang, Richmond năm 1999 và thành lập chùa Viên Giác Richmond năm 2001 làm Trụ Trì đến năm 2005. Đi hoằng pháp đến New Mexico, bị ngã bệnh nhưng được cứu sống. Hiện tại HT đang tịnh dưỡng tại thành phố New Mexico này. 

Việc đóng góp cho Phật Giáo, cho Giáo Hội, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến thân tàn lực kiệt, chết đi sống lại ở trong tù ba lần. Nay tuy đau yếu nhiều, nhưng cũng cố gắng đi hoằng pháp.

Những sách đã xuất bản :


1-Nỗi Niềm Của Chú Tiểu in ở Maryland đã hết trong vòng 2 tháng.(2001)
2-Những Xúc Động Đi Vào Tâm Linh Trên Xứ Phật (in ở Virgina 2007)
3-Những Vị Phật ở Miền Tây Nam Việt Nam (In ở California 2009)
Sách đang viết 
1- Góp vài Cánh Hoa (hy vọng sẽ xuất bản cuối năm 2010)
2- Tình thương và nghiệp lực.
3- Cuộc đời huyển hóa.


***

Kính mời xem bài viết của HT Thích Tuệ Chiếu

 

HT Thich Tue Chieu2
bo-de-dao-trang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4901)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7212)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4229)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4869)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5638)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6235)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3858)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5302)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5350)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13018)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567