Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành kính tưởng niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm

09/04/201319:09(Xem: 7482)
Thành kính tưởng niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm

Phân Ưu - Tưởng Niệm - Cáo Phó

tayphuongtamthanh

Thành kính tưởng niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm

TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC LÂM
(1929 – 2012)


Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.

Ngài sinh ngày 10 tháng 8 năm 1929 ( Kỷ Tỵ ), tại Làng Lương Lộc, xã Phước Hưng, huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình định trong một gia đình nhiều đời có truyền thống Phật giáo. Thân phụ là Cụ ông Phan Trị pháp danh Nguyên Bình, thân mẫu là Cụ bà Đặng Thị Trình pháp danh Nguyên Sính. Ngài là người con thứ 8 trong gia đình có 9 người con.

Năm lên 12 tuổi ( 1940 ) do túc duyên nhiều đời, lại thêm thường theo Mẫu thân về Tổ đình Thiên đức tụng kinh bái sám, cảm mến đạo phong của Chư Tăng, Ngài đã được song thân đồng ý cho xuất gia đầu sư với Hòa Thượng Tâm Tịnh – Huệ Chiếu, Trú Trì Tổ đình Thiên Đức, thôn Háo Lễ, xã Phước Hưng, Huyện Tuy Phước, tỉnh Bình định.

Năm 1952, được sự cho phép Bổn Sư, Ngài đã thọ Tỳ kheo giới tại Đại giới đàn tổ chức tại Tổ đình Thiên Bình – An Nhơn, do Hòa Thượng Tâm Đạt làm Đàn chủ, Chứng minh Giới Đàn là Hòa Thượng Tâm Tịnh – Huệ Chiếu Tổ đình Thiên Đức, Đường Đầu Hòa Thượng là Hòa Thượng Thích Huệ Chiếu Tổ đình Thập Tháp, Yết ma là Hòa Thượng Phúc Hộ, Tổ đình Từ Quang Phú Yên, giới tử đồng đàn của giới đàn nầy có chư Hòa Thượng Liễu Không, Giác Ngộ, Đỗng Minh . . .

Năm 1954, sau khi chấm dứt chiến tranh, tuy đều đã khá trưởng thành nhưng được sự khuyến khích của Đại Sư huynh và là Giáo thọ đầu đời là Hòa Thượng Giác Tánh, Ngài cùng với Đoàn Tăng sinh 12 vị vào Khánh hòa tòng học chuyên khoa Kinh luật Luận tại Phật Học Đường Trung phần tại Nha Trang, do Hòa Thượng Thích Huyền Quang làm Giám đốc, sau đó là Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm Giám đốc. Năm 1957, sau khi tốt nghiệp Phật học đường Nha Trang Ngài cùng một số Chư Tăng trở lại quê nhà Bình định tham gia giảng dạy tại hai Phật học viện Nguyên Thiều ( 1960 – 1970 ) và Phật học viện Phước Huệ - Thập Tháp ( 1970 – 1975 ). Môn dạy chính của Ngài là Luật, Nghi lễ. Thời gian cộng hành cùng Chư Tôn Túc tại Tu Viện Nguyên Thiều gần 10 năm.

Năm 1965, do chiến tranh ác liệt , ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt Tu học tại Tu Nguyên Thiều, nên Tăng sinh Tu viện Nguyên Thiều phần lớn tản cư lưu trú tại Tổ đình Long Khánh, Qui Nhơn. Ngài cũng về Tổ đình Long khánh với trọng trách là quản lý và chăm sóc Tăng sinh của Tu Viện Nguyên Thiều, lo đời sống vật chất cho Chư Tăng tạm lánh chiến tranh ấy. Sau Ngài có tham gia dạy giáo lý cơ bản cho Học sinh Trường Trung học Bồ Đề Qui Nhơn. Dạy luật Tứ phần và Nghi lễ tại lớp học Gia giáo tại Tổ đình Long khánh, lúc bấy giờ tại Tổ Đình Long Khánh số lượng Tăng sinh tại Long Khánh với Tu viện Nguyên Thiều lưu trú là trên 100 vị.

Năm 2007, Ngài cùng đoàn Cao Tăng Bình định được Ban Tổ chức IOC của Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Thái Lan cung thỉnh đến Bangkok để chứng minh và sám chủ cho một Trai đàn Chẩn tế để trình bày sắc thái, âm điệu cổ truyền của Nghi lễ truyền thống Phật giáo Việt Nam, đặc biệt để cầu nguyện Thế giới Hòa bình, chúng sanh an lạc.

Từ năm 1965 đến nay 2012, Ngài thường trú tại Tổ đình Long Khánh. Trước năm 1975, Ngài có độ 4 Đệ tử xuất gia với Ngài, nhưng vì hết duyên nên bốn vị Đệ tử ấy đã lần lượt hoàn tục. Cũng từ đó, Ngài sống thanh đạm nơi liêu tranh trong khuôn viên Tổ đình Long Khánh tham cứu Phật pháp, nghiên tầm Kinh Luật và Nghi lễ Phật giáo.

Theo Ngài, Lễ nhạc là điều quan trọng nhất cho đời sống của con người, ngoài cơm ăn, áo mặc, nhà ở .v.v…Vì rằng đời thiếu lễ đời sẽ lâm vào tình trạng hổn loạn mất trật tự. Đời thiếu nhạc đời sẽ khô khan ảm đạm. Do đó Ngài rất tâm đắc với môn Nghi lễ Phật giáo, tác phẩm đầu tay của Ngài là 4 tập Hành lễ nghi thức Phật giáo, xuất bản năm 1973, sau đó tái bản nhiều lần, được Chư Tăng toàn quốc hoan nghênh, ngoài vấn đề sử dụng để hành lễ, nó còn bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo. Ngài đã biên soạn nghi thức khai đạo giới tử và được Ban Kiến đàn cung thỉnh làm Tuyên Luật sư tại các Đại giới đàn Nguyên Thiều năm 1989, Giới Đàn Phước Huệ năm 1994, Giới Đàn Chánh Nhơn năm 2000, Giới đàn Huệ Chiếu năm 2004, Giới Đàn Giác Tánh năm 2009.

Ngoài ra Ngài còn dày công biên soạn và ấn hành các tác phẩm :

  1. Hành Lễ Nghi thức Phật giáo 1973, tái bản lần thứ II , 1999.
  2. Sử Ba mươi ba vị Tổ Ấn Hoa – năm 2002
  3. Luận giải Nghi lễ Phật giáo Việt nam ( 11 tập – năm 2005 )
  4. Nghi pháp Khai đạo giới tử Đại giới đàn Cổ Pháp tại Lang Mai, Pháp quốc năm 2006
  5. Phật giáo Nghi Lễ giáo khoa Trung cấp năm 2007
  6. Tịnh độ pháp yếu, năm 2010
  7. Phật giáo Nghi lễ sơ cấp , năm 2011.


Cuộc đời của Hòa Thượng ngoài việc tham gia giảng dạy đào tạo Tăng tài, Ngài đã nghiên cứu và biên soạn Nghi Lễ Phật giáo nhằm bảo tồn giá trị văn hóa của truyền thống Nghi lễ Phật giáo Việt nam, và phát huy giá trị ảnh hưởng đích thực đến đời sống tâm linh nhờ âm nhạc và lễ nghi Phật giáo. Ngài muốn để lại cho đàn hậu học biết rằng: “ Giáo lý thậm thâm vi diệu bao nhiêu, thì Lễ nhạc Phật giáo phải tương quan với giáo lý ấy như bánh xe phải gắn liền với trục xe vậy. Trong thời đại hội nhập nầy, chúng ta là người con Phật phải cùng nhau mỗi người một tay đẩy cổ xe Đại thừa của nghành Nghi lể Phật giáo vững bước đi lên và tâm niệm rằng Lễ nhạc Phật giáo là phương diện tốt nhất trong vấn đề Hoằng pháp, và phải đặt Nghi lễ vào vị trí xứng hợp trên bước đường hoằng pháp lợi sanh .”

Hóa duyên đã mãn, sau thời gian lâm trọng bệnh, tuy đã được các vị Y, Bác sĩ tận tình chữa trị, nhưng tuổi cao sức kiệt, Hòa Thượng đã thâu thần thị tịch luc 21 giờ 30 ngày mồng 08 tháng 5 năm Nhâm Thìn, tức ngày 26/6/2012, tại Tổ đình Long Khánh , Tp. Qui Nhơn. Trụ thế: 84 năm, Hạ lạp: 62 năm.

NAM MÔ TỰ LÂM TÊ CHÁNH TÔN TỨ THẬP TỨ THẾ THIÊN ĐỨC TỰ Húy Thượng NGUYÊN Hạ TRẠCH, Tự CHÍ CÔNG, Hiệu GIÁC LÂM HÒA THƯỢNG TÂN VIÊN TỊCH GIÁC LINH – TÁC ĐẠI CHỨNG MINH

Nguồn: Website Phật giáo Bình Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 18253)
Ba năm về trước, khi bổn-sư (và cũng là chú ruột) của tôi là cố Hòa-Thượng Ðại-Ninh THÍCH THIỀN-TÂM viên-tịch, trong buổi lễ thọ tang ngài tôi có dâng lời nguyện trước giác-linh Hòa-Thượng cầu xin ngài chứng-minh và gia-hộ cho tôi - vừa là đệ-tử và cũng là cháu ruột của ngài - được đầy đủ đạo-lực cùng minh-tâm, kiến-tánh thêm hơn để nối-tiếp theo gót chân ngài, hoằng-dương pháp môn Tịnh-độ nơi hải-ngoại ....
17/04/2013(Xem: 6035)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 11322)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
10/04/2013(Xem: 7801)
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
10/04/2013(Xem: 9706)
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
10/04/2013(Xem: 8954)
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
10/04/2013(Xem: 6768)
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
10/04/2013(Xem: 7234)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
10/04/2013(Xem: 11369)
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
10/04/2013(Xem: 7044)
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]