Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu

09/04/201319:06(Xem: 5629)
Lãng đãng một Khuất Nguyên ở Cụ Thiều Chữu



KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH

LÃNG ÐÃNG MỘT KHUẤT NGUYÊN Ở CỤ THIỀU CHỬU

Thích Ðồng Bổn

---o0o---

Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này. Nghĩ về ông nhân 100 ngày sinh, tôi muốn nói về chất “Sĩ” nơi ông được thể hiện qua năm khía cạnh:

- Thiều Chửu : một “Nho Sĩ” mang chí hướng tải đạo hóa đời.

Vốn xuất thân từ một gia đình bần nông, hơn ai hết ông tất thấm thía cảnh nghèo khổ do bị địa chủ và thực dân áp bức bóc lột. Chính vì thế ông quyết tâm tự học chữ Hán nơi bà Nội của ông với ý nghĩ sẽ mang cái chữ giúp ích cho đờiù. Vốn là một nhà nho , ông tự học thêm các ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật để không bị lạc hậu và để tiếp thu các luồng tư tưởng của thời đại từ khắp nơi trên thế giớùi. Theo gương cha là cụ Cử Cầu – tức nhà Chí sĩ Giản Thạch trong phong trào Ðông kinh Nghĩa thục - ông trở thành một chiến sĩ trên mặt trận chống giặc mù chữ , cái đã làm cho dân ta không nhận thấy con đường sáng vượt qua đói nghèo và con đường cứu nước thoát khỏi cảnh nô lệ ngoại bang của thực dân đế quốc, cụ thể là việc ông cùng với các ông: Nguyễn văn Tố, Ðặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh, Trần Huy Liệu lập Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động tại hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội(1).

Sự nghiệp lớn nhất của Nho sĩ Nguyễn Hữu Kha là tác phẩm “Hán Việt tự điển”, một cuốn tự điển có giá trị ứng dụng xuyên suốt qua nhiều thời đại, là “sách tủ” của mọi tu sĩ Phật giáo trên đường nghiên cứu Tam tạng giáo điển để tu học. Ở lời nói đầu, ông đã viết lên thao thức của mình về Nho học: “Tôi tự nghĩ rằng Hán học thời nay đang ngày một mất dần, chỉ nhờ có học Phật thì may ra mới duy trì được ít nhiều; nếu dùng cách nào mà giúp cho người đọc được kinh biết được chữ, tức là cái nền tảng để xây đắp lại tòa lâu đài Nho giáo nguy nga tráng lệ”(2).Ngoài ra, ông còn những bài viết mang đậm tính cách bộc trực, khẳng khái của một Nho sĩ trong thực hiện sứ mệnh chống cái xấu, cái ác không khoan nhượng . Giớùi Tăng lữ đương thời không theå không suy ngẫm các bài thơ, bài viết cảnh tỉnh người tu Phật của ông, tiêu biểu là những lời lẽ thẳng mà đautrong quyển “Con đường học Phật thế kỷ 20”.

Dù là một Nho sĩ uyên bác nhưng ông không hề quên cội nguồn bần nông của mình nên suốt cuộc đời ông vẫn luôn gắn bó giữa sự nghiệp tri thức với công việc nông trang, nói gọn hơn là một kẻ sĩ làm nông, đó cũng là một nét đặt biệt nơi ông , ít có nơi nhiều nhà Nho khác.

- Thiều Chửu : một trí thức “Cư Sĩ” Phật giáo.

Khi đến với đạo Phật, ông tự nhận mình “ cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lý mà thôi” trong lời Tự Bạch. Là một nhà Phật học uyên thâm, ông có nhiều hoạt động tỏa sáng trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo Bắc kỳ với trên dưới 40 tác phẩm cho Phật giáo. Hàng loạt những dịch phẩm - tác phẩm về Kinh điển và Phật học có giá trị được ra mắt trong thời này, cùng nhiều bài viết sắc xảo đăng trên báo Ðuốc Tuệ, cơ quan ngôn luận của hội Phật giáo Bắc kỳ lúc bấy giờ. Sách và báo đều xuất bản từ nhà in do ông quản lý, mang đậm tính giáo dục và cải cách.

Trước sự suy thoái phẩm chất ở một bộ phận hàng ngũ Tăng đoàn của đạo Phật thời kỳ này, chỉ thiên về danh lợi chức quyền, đến sự xa hoa từ việc bày vẽ cúng bái mê tín mà xem nhẹ nhiệm vụ truyền bá chính pháp và trau giồi đạo đức giải thoát. Bối cảnh thực trạng này được ông miêu tả như sau trong sách “Con đường học Phật thế kỷ 20”:

“ Người tín ngưỡng Phật giáo nước ta hạng trên nhất chỉ tu lấy lợi một mình, mặc kệ đời chẳng thèm nhìn tới; hạng thứ nhì thì mượn cửa chùa làm chốn dung thân dễ dàng qua ngày; hạng dưới nữa thì lại lấy chùa chiền làm chỗ buôn bán kiếm chác, không từ một sự đê hạ, nhơ nhớp nào mà không dám làm”.

Qua ngòi bút của mình ông muốn làm cuộc cải cách nhằm cảnh tỉnh các tệ nạn trên, đem lại sự trong sáng cho giáo lý Phật đà bằng đề nghị thẳng thắn: “Tôi mong rằng các nhà tín ngưỡng Phật giáo nên chú ý vào hai sự này cho: 1 – Nên gánh vác lấy cái trách nhiệm chỉnh đốn Phật giáo, cải lương Phật giáo. 2 – Ðừng theo cái lối tín ngưỡng về mặt tiêu cực mà phải gắng sức tiến sang mặt tích cực ngay đi. Làm trái lại thì chẳng đợi người ta phá chùa đuổi sư mà chính Phật giáo tất phải đi dần đến diệt vong vậy.”(Sđd)

Ông cũng góp sức truyền bá trào lưu học Phật bằng chữ quốc ngữ ở thời kỳ mà sự mù chữ còn phổ cập khắp nhân dân, việc tụng niệm còn bằng phiên âm từ chữ Hán. Ông nói trong lời tựa bản dịch “Kinh A Di Ðà” rằng: “nhưng vì tính ta kém phần tự lập về tinh thần, cho nên cứ vùi đầu với chữ Hán, ít người dám phiên dịch sang tiếng ta. Ta chưa biết rằng những Kinh chữ Hán ta tụng niệm đó có phải là chính tiếng Phật nói đâu”

Chí hướng và tâm nguyện ấy còn thể hiện trong cách ông chọn Ðạo hiệu cho mình: Thiều Chửu và Lạc khổ. Thiều Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, ý muốn nói lên những tệ nạn kia chính là bụi dơ làm hoen ố hình ảnh trong sáng của đạo Phật, mà chính ông là cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình.Bút danh Thiều Chửu còn một ý nữa, là trước khi sửa người thì phải trong sạch lấy mình, qua sự hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẫn đục bởi phiền não vô minh che lấp , như bài kệ tỏ đạo của Ngài Thần Tú:(3)

Thân thị Bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời thường phất thức

Vật sử nhạ trần ai.

Tạm dịch :

Thân là cây Bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Thường ngày hằng lau quét

Chớ cho dính bụi trần.

Sử dụng bút danh Lạc Khổ là để cảnh tỉnh chính mình và người trên bước đường tìm đến thường–lạc–ngã–tịnh. Lạc Khổ có nghĩa là vui trong khổ, tượng trưng cho pháp hạnh “thiểu dục–tri túc” trong giáo lý căn bản nhà Phật, nghĩa là ít muốn và biết đủ, thể hiện nơi bản thân ông đã sống trọn đời mình qua nếp sống giản dị, đạm bạc, trường trai mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng Ngọ, guốc mộc nâu sòng như ngươi chân quê để làm tấm gương mẫu mực sách tấn học trò của ông rằng, ngay trong hoàn cảnh khổ ấy hay thân phận khổ đau này, con người ta vẫn tìm thấy niềm hạnh phúc an lạc hơn hẳn mọi điều phù phiếm trên đời.

Ý nghĩa nội hàm của từ Lạc Khổ còn là giác ngộ cái khoå ở chỗ: chỉ có trải qua khổ đau (tức khổ đế), mới nhận thức được bản chất và nguyên nhân của khổ (tức tập đế) trong giáo lý căn bản cuûa đạo Phật là Tứ Diệu Ðế (4 chân lý Khổ-Tập-Diệt-Ðạo).Khi con nguời giác ngộ được chân lý của khổ đau, cũng chính là trực nhận sự an lạc vô biên trong giải thoát; cho nên, hạnh phúc hay đau khổ chính là trong nhận thức của mình thôi.

- Thiều Chửu : người mang tấm lòng “Ðại Sĩ”.

Nhờ thấm nhuần tư tưởng nhà Phật từ thuở nhỏ, ông sớm bộc lộ lòng mẫn cảm thương người nghèo khổ khó khăn hơn mình. Cuộc đời ông đã trải qua bao cay đắng khổ cực từ thuở ấu thơ nên dễ đồng cảm với những số phận bất hạnh, như lời ông đã phát thệ rằng: “ Ðời tôi hễ ai thiếu thốn cái gì muốn nhờ tôi, chưa hé miệng tôi đã vâng, có thì giúp, không thì vay giúp, nếu không giúp được thì lòng tôi đau khổ cũng như người không vay được. Tôi mà còn một bát gạo, ai đói hơn, tôi cũng nhường ngay thà tôi chịu nhịn, và chí tôi với sự nhịn hai ba bữa là thường lắm”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd)).

Lòng từ bi khiến ông phát tâm noi chí nguyện chư Bồ Tát giúp đời bằng cách gánh vác và chia sẻ bao nỗi bất hạnh của thời loạn ly, như những việc: chủ trương lập hội Tế sinh nuôi trẻ bị mồ côi; đứng ra lo việc chôn cất cho hàng trăm người bị chết vì nạn đói kém; tổ chức các lớp học cho trẻ bị lạc mất cha mẹ vì chiến cuộc; lập nhà dưỡng lão, nghĩa trang Tế độ và không nề khó khăn gian khổ đưa các em đi tản cư lánh giặc ra vùng tự do v.v. . . Ông còn dạy người làm thuốc Ðông y, tự tay chữa bệnh cho bất cứ ai cần đến không nề hà công sức, còn tổ chức cày cấy ruộng nương, trồng trọt khoai sắn để tự túc kinh tế nuôi dưỡng các em đến trưởng thành.Các việc làm ấy ông xem là sự nghiệp cả đời ông , như ông đã viết tiếp trong lời Tự bạch: “Sau đó, tôi không hề nghĩ đến cái đời riêng của tôi nữa; người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đình, có biết đâu uẩn khúc của tôi từ thuở còn thơ dại”.

Ông quả là một bậc Ðại sĩ giữa đời thường, một tâm hồn nhân ái giữa cuộc chiến tranh máu lửa của nhân dân để giành chủ quyền đất nước.

- Thiều Chửu : môt nhà “Chí Sĩ” yêu nước.

Hun đúc bởi lòng yêu nước thương nòi, chí căm thù giặc Tây và truyền thống cách mạng của gia đình ( cha ông bị giặc Pháp đày ra Côn Ðảo vì tham gia phong trào kháng Pháp, và những người thân trong gia đình của ông đã chết vì chiến tranh), ông coi việc tận trung tận hiếu vì dân là nghĩa vụ thiêng liêng, như lời ghi ở đầu sách “Con đường học Phật ở thế kỷ 20”: “Phải tận hiếu với nhân dân, nhân dân là cha mẹ bao kiếp, là chư Phật vị lai”. Ta thấy rõ tâm trạng thời trai trẻ của ông trước nỗi đau nước mất nhà tan, lòng căm thù giặc Pháp và bè lũ tai sai đến xương tủy qua những câu thơ đề trên vách lăng của tên Việt gian Lê Hoan(4):

“Thanh thần điếu cửu nguyên

Chủng chủng u tình huyên

Thế thái cạnh phú quý

Nhân tình xu ngân tiên

Công cừu ngạch bái thượng

Nghĩa vụ phóng tâm biên”.

Bản dịch của Nguyễn Hải Hoành :

Tinh mơ qua bãi tha ma,

Vong hồn bao kiếp kêu la vang trời.

Bon chen phú quý thói đời,

Lòng người mê mẫn hướng nơi đồng tiền.

Thù chung: trên trán, đưa lên,

Nghĩa vụ: canh cánh không quên trong lòng”.

Ôâng đã chọn vị trí chiến đấu ở hậu phương qua sứ mệnh giáo dục trẻ em và tăng gia sản xuất, đem tri thức của mình giúp ích cho địa phương ở vùng kháng chiến để góp phần vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Niềm tin cách mạng tất thắng cộng với tín ngưỡng đạo Phật nơi tâm hồn được ông cảm tác qua bài thơ:

Phen này cắt tóc đi tu,

Tụng kinh Ðộc lập, ở chùa Duy Tân

Ðêm ngày luống những ân cần

Cầu cho ích quốc lợi dân mới là

Cầu cho nước Việt Nam ta

Khắp Trung Nam Bắc một nhà vui chung

Toàn dân kháng chiến thành công

Tự do Hạnh phúc vô cùng vô song.

(Vô Ðề – 1947)

Sự khẳng khái của một Chí sĩ được ông thể hiện qua bài viết cảnh cáo những người Phật giáo làm tai sai cho giặc vào cuối năm 1952(5): “ Nội dung bài ấy có hai phần, phần 1 chỉ rõ tinh thần cách mạng của Phật giáo thuyền tông; phần 2 chỉ rõ chỗ suy kém của Mỹ, và chỉ cho đường về với kháng chiến”. Ông quan niệm, thà khổ sở thiếu thốn trăm bề nơi vùng tự do của kháng chiến, còn hơn sống nhục nơi chốn phồn hoa đô hội do giặc chiếm đóng; quyết liệt hơn, ông dứt khoát không chịu nhận bất kỳ sự trợ giúp nào bắt nguồn từ nội thành gửi ra, khi được Hòa thượng Tố Liên gửi biếu 6 lượng vàng, ông răn dạy học trò của mình rằng: “Chúng ta phải tự lực cánh sinh; người tư do không ăn xin người mất tự do. Vàng của ai cho phải trả lại, dứt khoát tôi không dùng”(Tự Bạch của Thiều Chửu-Sđd). Ðó phải chăng chính là phẩm chất cao thượng của người Chí sĩ ở nơi ông, không còn gì phải bàn luận thêm vậy.

-Thiều Chửu :một nhân cách rạng danh“Tiết Sĩ”.

Trong chính sách xác định thành phần cải tạo ruộng đất năm 1954, do trình độ nhận thức yếu kém của người thực thi và do một số quần chúng dễ bị chi phối bởi các lời tuyên truyền của những phần tử cơ hội rằng những người trí thức đều gốc là thành phần tư sản bóc lột ... ông đã trở thành nạn nhân của một oan án . Là một kẻ sĩ, oÂng đã chọn cái chết để bày tỏ tiết tháo của mình. Tôi được nghe một vị Nhân sĩ giáo phẩm kể lại rằng: sau khi viết thư để lại và dặn dò cùng các học trò của mình, ông đã kết thúc cuộc đời bằng cách thắp hương tạ lễ bốn phương bên bờ sông, sau đó tự quấn chăn vào mình nhảy xuống giòng sông ở đoạn chảy siết để tự trầm.Ðấy cũng là cái dũng khí lớn nhất mà ông đã làm được để giữ gìn phẩm giá ở một người trí thức, để laøm một bài học thức tỉnh những ai còn chưa thấu hiểu đạo lý tình người, để không một ai có thể tùy tiện bóp méo sự thật về ông.

Lấy cái chết để thể hiện hiện tấm lòng trong sạch của mình, mà không hề oán hận người nào, không muốn đổ lỗi cho ai, hoặc bất mãn về đường lối chính sách; trước sau ông vẫn một lòng tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do chính phủ lãnh đạo, ấy là sự tuẫn tiết của tấm lòng trung kiên, của niềm tin đạo nghĩa vẫn có ở đời, và vì ông vững tin vào thế hệ học trò cùng hậu duệ của mình vẫn sẽ tiếp bước đi theo con đường đúng đắn mà ông đã dạy dỗ ấy, tất sẽ có ngày trả lại công bằng và danh tiết cho mình mai sau.

* * *

Nghĩ về ông, tôi không khỏi bùi ngùi cho thân phận kẻ sĩ đã ỡ vào một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc trong thời kỳ đầu giành lại độc lập từ tay ngoại bang. Những lời kể về việc tử tiết của ông gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tôi, bởi từ trước tới nay tôi chưa hề nghe thấy sự tuẫn tiết nào đặc biệt và chấn động đến thế. Chính vì thế tôi lặn lội tìm hiểu biên khảo về ông ở thập niên 80 – 90 để viết tiểu sử của ông .Ôâng tự cho trường hợp của ông là cái án “mạc tu hữu” mà Nhạc Phi đời Ðường phải gánh chịu(6) nhưng tôi nghĩ cái chết của ông phảng phất sự tuẫn tiết của Nhà nho Khuất Nguyên nước Sở- thời Chiến quốc, cũng đã nhảy xuống giòng sông Mịch La tự trầm, sau khi để lại câu nói bất hũ : “thế gian này tất cả đều say, chỉ có mình ta là tỉnh”.

Những điều luận bàn quanh năm chất Sĩ : Nho sĩ, Cư sĩ, Ðại sĩ, Chí sĩ và Tiết sĩ của Nguyễn Hữu Kha để khẳng định rằng, Thiều Chửu đối với đạo là một Phật tử có đạo đức mẫu mực; đối với đời là một Nhân sĩ có nhân cách cao đẹp, Cuộc sống và cái chết của ông đã để lại những mến tiếc vô cùng trong lòng những thức giả đương thời và hậu học ngày nay.

Mùa Xuân năm Nhâm Ngọ ở Sài Gòn, tháng 3 - 2002

Thích Ðồng Bổn

Ghi chú:

(1)Theo “Cư sĩ Thiều Chửu – Nguyễn Hữu Kha”, Trần Việt Quang và Nguyễn Hải Trừng, Tài liệu lưu hành nội bộ.

(2)Tự điển Hán Việt, bản in lần thứ nhất của NXB Ðuốc Tuệ, 1942

(3)Phật học Phổ thông khóa thứ V, Thiền tôn, tr.202,Thành hội PG Tp.HCM xb, 1997

(4). Lê Hoan, kẻ đã làm tay sai cho giặc, chỉ huy đánh úp ông Hoàng Hoa Thám –tức cụ Ðề Thám, lãnh đạo khởi nghĩa Yên Thế(Bắc Giang) năm 1913, ông bị tay sai thực dân Pháp ám hại.

(5)Bài viết này ông gửi cho anh Ðường tìm cách phổ biến trong nội thành, sau anh đã bị giặc bắt. Tự Bạch của Thiều Chửu, tr.14. Tài liệu lưu hành nội bộ.

(6)Lời ông viết ở những dòng cuối cùng của bản Tự Bạch–Sđd, nhưng có chỗ cần đính chính là Nhạc Phi ở đời Nam Tống chứ không phải đời Ðường. Tuy nhiên, người viết vẫn trích dẫn nguyên văn.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5400)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5852)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6859)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5852)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10235)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8264)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13387)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5587)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13373)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6376)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567