Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Diệu Không

01/10/201405:12(Xem: 9359)
Sư Bà Diệu Không

Su Ba Dieu Khong


CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP SƯ BÀ DIỆU KHÔNG
1905-1997






 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

 

Kính bạch chư Đại Tăng chứng minh,

Kính thưa Đại chúng Phật tử,

 

Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.

* Sơ Lược tiểu sử, 1905-1997

I. Thân Thế:

SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên, trong buổi giao thời của hai nền văn hóa cũ mới.

SB vốn dĩ xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc, thân phụ của SB là quan Đại thần của triều đình Huế thời bấy giờ. Thuở thiếu thời SB đã hấp thụ sâu đậm hai nền giáo dục cũ mới ấy nên tư tưởng của SB rất cấp tiến. Gia đình muốn cho SB xuất dương du học, nhưng SB đã từ chối vì muốn sống trong hoàn cảnh đương thời, trong lễ nghi đạo đức truyền thống ngõ hầu nâng cao phẩm giá của người phụ nữ mà SB thường ấp ủ. Tuy nhiên, SB nghĩ rằng muốn nâng cao giá trị phẩm chất của người phụ nữ thì phải xuất gia, tu học, phải xa rời đời sống nhỏ hẹp gia đình. Để thực hiện ước vọng ấy, SB bèn xin Cha Mẹ đi tu, nhưng gia đình không dễ dàng chấp nhận vì SB là con gái út của quan Đại thần, hơn nữa thời gian ấy ở Huế chưa có một ngôi chùa chính thức của Ni giới. Trước những khó khăn trở ngại ấy, SB ẩn nhẫn chờ thời, lo trả hiếu cho Cha Mẹ, làm tròn bổn phẩn đối với gia đình, mong cơ duyên sớm đến đển hoàn thành chí nguyện xuất gia.

II.  Đầu Phật Xuất gia:

Vào năm 1932, khi SB 27 tuổi được Hòa Thượng Giác Tiên, Tổ Đình Trúc Lâm, truyền Thập giới Sa Di Ni và cho pháp tự Diệu Không, nhưng SB vẫn để tóc làm phương tiện giao dịch với người Pháp trong chính quyền bảo hộ, với tư cách đại diện An Nam Phật Học mà SB là một trong những vị sáng lập viên. Thời gian qua mau, sau 12 năm thọ Thập giới Sa Di Ni, năm Giáp Thân, 1944, SB được thọ Cụ Túc Giới tại Giới Đàn Thuyền Tôn do Hòa Thượng Giác Nhiên làm đàn đầu.

Kể từ khi xuất gia cho đến ngày đầy đủ giới pháp – Tam Đàn cụ túc, SB luôn có mặt trong mọi hoàn cảnh Phật sự, nơi nào cần SB đều có mặt để chung lo Phật sự nơi đó, không phân biệt thành phần xã hội. SB trang trải tình thương yêu đến cho tất cả, do vậy SB đã thể hiện tấm lòng phụng sự Phật pháp đến với mọi người đều được tốt đẹp. Tấm lòng của SB đã được trân quý nhất mực, kể cả chư Tăng thời bấy giờ.

III.  Hành Trạng Hóa Duyên:

SB xây dựng Ni Viện đầu tiên cho Ni giới là Ni Viện Diệu Đức, Huế, SB sáng lập các chùa Ni khác như: Diệu Viên, Khải Ân, Hồng Ân - Huế, Bảo Thắng - Hội An, Bảo Quang - Đà Nẵng, Tịnh Nghiêm - Quảng Nam, Ni Viện Diệu Quang - Nha Trang. Ở miền Nam, SB sáng lập Ni Trường ở Sa Đéc, Ni Viện Từ Nghiêm ở Sài Gòn. SB cũng góp công xây dựng Đại Học Vạn Hạnh cùng với chư Tôn túc Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Minh Châu…

Ngoài những Phật sự xây dựng chùa viện, SB còn góp phần không nhỏ trong việc khai sáng các Cô Ký Nhi Viện ở miền Trung, như Cô Nhi Viện Tây Lộc - Huế… SB thành lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách, Nguyệt San Liên Hoa - năm 1952 do Hòa Thượng Đôn Hậu làm Chủ nhiệm, Hòa Thượng Đức Tâm làm Chủ bút, SB là quản lý, biên tập viên.

IV.           Công Trình dịch thuật của SB gồm:

-         Thành Duy Thức Luận

-         Du Già Sư Địa Luận

-         Lăng Già Tâm Ấn

-         Di Lặc Hạ Sanh Kinh

-         Đại Trí Độ Luận

-         Trung Quán Luận Lược Giải (Long Thọ Bồ Tát)

-         Hiển Thật Luận (Thái Hư Đại Sư)

 

Ngoài những dịch phẩm trên, SB còn sáng tác nhiều thơ văn để khuyến tấn người đời tu tập, cũng như giáo dục người phụ nữ thời bấy giờ.

Trong đời sống hằng ngày, tuy bận rộn Phật sự vừa đối ngoại, đối nội lo toan nhiều việc nhưng SB vẫn không xao lãng công hạnh tu hành, tham thiền, niệm Phật. Tuy mang thân người nữ nhưng SB không có tính nữ nhi thường tình, hy sinh đời mình phụng sự cho lý tưởng tu tập Bồ Tát Đạo. Chính vì lý tưởng Bồ Tát Đạo này, SB đã không phát nguyện sinh về Tịnh Độ mà nguyện trôi lăn trong sinh tử luân hồi để làm lợi ích chúng sinh. Vào thời bấy giờ các Sơn Môn Thừa Thiên – Huế, quý Ôn đều biết hạnh nguyện của SB, quý Ôn kể lại nhiều câu chuyện về tánh đức, hạnh lành của SB thể hiện qua đời sống hằng ngày, qua tinh thần phụng sự Phật pháp, lợi lạc quần sanh.

V.  Cuối Đời Hành Đạo:

Suốt đời đem thân tu tập và hành đạo, năm 1978 SB trải qua một cơn bạo bịnh, dứt hơi thở cuối cùng, trong lúc chư Tăng Ni vây quanh Niệm Phật tiếp dẫn vừa dứt, một sư cô cảm thương bật khóc thành tiếng, SB giật mình tỉnh dậy. SB nói: “Có gì mà quý cô khóc, sống chết là chuyện thường tình của người tu hành, ta đã thấy cảnh Tịnh độ trang nghiêm rồi, quả thật cõi ta bà không bằng, nên ta nguyện ở cõi ta bà để tùy duyên hóa độ.” Từ đó, SB tiếp tục con đường hoằng pháp lợi sanh suốt 19 năm sau.

Thời gian đã đến, hạnh nguyện đã tròn, SB thâu thần thị tịch vào 2 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu, nhằm ngày 23 tháng 9 năm 1977, hưởng thọ 93 tuổi đời, 53 hạ lạp.

Một tiểu thư con nhà quan, quyền quý, giàu sang, nhưng SB đã từ bỏ, không lấy đó làm lợi ích cho bản thân, danh lợi cho riêng mình sống đời thế tục, mà đời sống ấy chính là phương tiện để làm lợi đạo ích đời. Sự nghiệp của SB để lại cho hậu thế tương đối khá nhiều: Chùa Viện, Ni Viện, cơ sở vật chất, văn hóa, giáo dục… cho GH. Riêng đời sống tâm linh, sự nghiệp tinh thần thì ngôn ngữ thế gian hữu lậu không thể nói hết được, sự tu chứng của SB thì mấy ai hiểu được. Do vậy, xin chắp tay cầu nguyện SB hồi nhập ta bà hiện thân người nữ để tiếp tục hướng dẫn, chấn chỉnh Ni giới tinh tấn tu hành, tinh nghiêm đời sống đạo, như hành trạng của SB còn ngời sáng trong tâm của tất cả Ni chúng hôm nay.

VI.   Nghịch Hạnh Độ Đời Kham Nhẫn

“Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp

Con xin lăn lóc cõi ta bà”

 

Năm 1932, sau khi lo toan việc nhà, SB xuất gia đầu Phật, sống đời tương chao của chốn Thiền Môn. Từ đó SB đã phụng sự tất cả trong khả năng của SB, từ việc chăm lo xây dựng chùa viện tại địa phương, cho đến các vùng phụ cận, xa hơn nữa là Saigon, miền Nam nước Việt. Sư Bà đã đem hết tâm huyết lo chấn chỉnh bên Ni giới, lo giáo dục hàng phụ nữ thời bấy giờ. Từ tinh thần hy sinh, phụng sự ấy SB đã hoan hỷ tham gia công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo, bình đẳng tín ngưỡng trước sự đàn áp của chế độ Ngô Đình Diệm. SB xin phát nguyện tự thiêu trước tiên trong công cuộc đấu tranh này. Chúng ta hãy nghe lại đôi dòng vấn đáp của SB và chư vị Tôn Túc thời bấy giờ:

“Một hôm tôi được mời về chùa Từ Đàm họp, Thượng Tọa Trí Quang nói:

- Miền Nam im lìm như vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng?

Thượng Tọa Thiện Minh nói:

- Phải có người hy sinh mới xong.

Tôi nói:

- Hy sinh đây là chết phải không?

Thượng Tọa Trí Quang đáp:

- Hy sinh trong ý nghĩa thiêu thân để bảo vệ chánh pháp.

- Vậy, kính bạch chư Tôn Túc, cho phép con đứng đầu đội cảm tử.

Hòa Thượng Thiền Tôn hỏi:

- Hòa Thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho phép không?

Hòa Thượng Mật Hiển nói:

- Vị pháp hy sinh ai lại dám cấm?”

(thuvienhoasen.org)

 

Sau đó, SB viết một bức thư gửi cho chư Tôn Đức miền Nam, ký tên phát nguyện tự thiêu. Sau đó, SB cùng người chị ruột là SB Diệu Huệ vào Saigon để chuẩn bị cho công việc hy sinh, tự thiêu để bảo vệ Phật pháp được trường tồn, cho quê hương, dân tộc được tự do hạnh phúc. Nhưng có lẽ nhân duyên chưa tròn, nên sau khi vào Saigon ở chùa Từ Nghiêm, SB được mời về Ấn Quang và Hòa Thượng Thiện Hoa, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo cho biết là đã có Hòa Thượng Quảng Đức phát nguyện tự thiêu rồi. Khi nghe tin Hòa Thượng Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng, Lê Văn Duyệt, SB đã xúc động, thành tâm làm bài thơ khóc Hòa Thượng:

“Thầy ơi! Con biết tính sao đây

Lễ kính lòng đau trước Thánh Thầy

Lửa dậy lưng trời thân chẳng động

Dầu loang khắp đất ý không lay

Tiêu diêu Cõi Tịnh, Thầy theo Phật

Lận đận trần gian con nhớ Thầy

Phật tử Việt Nam còn nhớ mãi

Nét son lịch sử vẫn không phai”

(Hồi ký – Đường Thiền Sen Nở - SB Diệu Không)

 

Trên con đường tu tập, SB quan Niệm phụng sự cho chúng sinh là cúng dường chư Phật, từ ý niệm này SB luôn xông xáo vào hiện tình xã hội để cứu nhân độ thế, để xốc dậy phẩm giá người phụ nữ thời ấy. SB đã xây dựng Hội Nữ Công Gia Chánh – Huế do Nữ sĩ Đạm Phương thành lập. Cảm kích tấm lòng phụng sự của Nữ sĩ Đạm Phương, SB đã làm bài thơ tặng Hội Nữ Công:

“Nữ Công sáng lập tại Thừa Thiên

Kinh tế nâng cao bước nữ quyền

Gánh vác giang sơn thân gái Việt

Duy trì nòi giống đất Rồng Tiên

Công dung tinh tấn không lười biếng

Ngôn hạnh đoan trang ấy chính chuyên

Tất cả chị em nên gắng bước

Noi gương Trưng Triệu mãi lưu truyền.”

 

SB đã thật sự dấn thân vào đời ác năm trược để hóa độ mọi người, làm lợi ích cho tha nhân mà không cầu mong chóng thành quả Thánh. SB chỉ một lòng lo chấn chỉnh Ni chúng, thành lập nhiều Ni Viện từ Huế vào Nam để tạo thành sự sinh hoạt đồng bộ với chúng Tăng. Vì tinh thần phụng sự cho xã hội, cho cộng đồng nữ giới tích cực, SB phát nguyện xuất gia, đầu Phật làm kẻ tu hành, sống nơi chốn nhà Chùa, sớm kinh tối kệ, những mong cứu vớt mọi người, mong sao được an lành hạnh phúc. Tâm cứu độ rộng lớn, tâm hy sinh cao cả làm rung dộng lòng người, Nữ sĩ Đạm Phương đã làm thơ tặng SB:

“Khoác áo nhu hòa thật khỏe không

Hiếu tình hai chữ trả đều xong

Thờ thân nuôi trẻ hai triêng nặng

Mến đạo thương đời một điểm trong

Công quả đã tròn nền Diệu Đức

Phẩm tài chỉ kém bạn Phương dung

Nêu cao đuốc tuệ gương bồ liễu

Như mảnh trăng tròn giữa biển Đông”

 

Đã nguyện dấn thân vào đời để tu tập, thì SB đâu có ước nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ. SB đã phụng hiến khả năng của mình qua hai phạm trù Đạo pháp và dân tộc. Về mặt Đạo pháp, như đã nói ở trên, SB chăm lo xây dựng chùa viện, cùng sát cánh với chư Tăng để hoằng dương Phật pháp nơi cõi ta bà này. Từ kinh tế, xã hội, văn hóa giáo dục… SB đều hiện thân khắp nơi để chu toàn Phật sự, không nề hà quản ngại tấm thân nhi nữ thường tình. Về mặt dân tộc, SB luôn đấu tranh đòi hỏi cho công cuộc tự do, dân chủ. Dưới thời Pháp thuộc, SB đích thân đối diện với quan lại của Triều đình Huế đòi hỏi công bằng, đòi hỏi thực thi dân chủ cho người dân. SB đã mang đạo Giải Thoát vào đời để mong tạo sự an lạc, Tịnh độ là đây.

SB nghĩ nếu rời khỏi nhân gian để cầu mong giải thoát thì khó quá, chi bằng tu tập và giải thoát ngay trong cuộc đời này. Sự giải thoát này là thành quả của tinh thần phụng sự, hiến dâng cho tất cả chúng sinh. SB đã chọn nơi đây làm đạo tràng tu tập cho chính mình. Do đó, SB đã làm bài thơ nói lên tâm sự của chính mình:

“Ta bà Tịnh Độ ở đâu xa

Chỉ tại lòng ta niệm chánh tà

Chánh niệm trang nghiêm thành Tịnh Độ

Tà niệm vận chuyển hóa ta bà

Vô tâm chánh trí là tâm Phật

Hữu ý mê tình ấy tánh ma

Tà chánh đều mong vô lậu giới

Ta bà Tịnh Độ ở tâm ta.”

(chuyenluan.net)

 

Nhìn lại cuộc đời tu hành xuất thế gian và phụng sự hiến dâng cho thế gian của SB là cả một tấm lòng nhiệt thành, quý kính, giờ đây bên Ni giới mấy ai có được hình ảnh cao thượng như SB. Khó tìm ra trong xã hội đương thời một hình ảnh từ hòa, nhân hậu, một tánh đức nhu nhuyễn, khoan dung như SB đã hiện thân vào những thập niên 30-40 ấy.

Sự chào đời của một cô bé nơi miền sông Hương núi Ngự đã làm đẹp cho quê hương xứ Huế thương yêu, đã làm rạng danh người phụ nữ đương thời, sống lại đúng nghĩa của bậc nữ lưu anh kiệt. Cô bé ấy lớn dần theo thời gian để rồi trở thành một SB danh đức trong dòng chảy của chốn tòng lâm tự viện. Xứ Huế là cái nôi Phật pháp miền Trung. Hôm nay, hàng Ni chúng phải chí thành ngưỡng vọng, thành tâm đảnh lễ công đức cao dày của SB mà noi gương tiến bước theo công hạnh tu tập và giá trị phụng sự của SB, ngõ hầu báo đáp ân sâu đối với SB trong muôn một.

 

Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni,

Chúng con thành tâm đảnh lễ chư Tôn Đức Đại Tăng trong ngày Về Nguồn – Hiệp Kỵ Tổ Sư lần thứ VIII tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu do Hòa Thượng phương trượng Thích Bảo Lạc tổ chức, tài trợ cho chương trình đại lễ được thành tựu viên mãn. Trước Đại Tăng trang nghiêm, thanh tịnh chính là ý thức Về Nguồn trong sự tư duy mẫn cảm thâm sâu, trong tinh thần hòa hiệp của bản thể Tăng già hằng lưu xuất. Một hội chúng Tăng già hiện hữu bất cứ nơi đâu, thì Phật pháp vốn có nơi đó, ấy là Niềm bình an hạnh phúc của các bậc chúng Trung Tôn trên con đường hoằng truyền chánh pháp.

Thành tâm kính chúc chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng cùng Đại Tăng pháp thể khinh an, chúng sinh dị độ để hoàn thành công cuộc hoằng pháp nơi hải ngoại này, để từ đó chúng ta luôn tưởng nhớ hình ảnh của chư vị Lịch Đại Tổ Sư được phụng thờ nơi Hậu Tổ mà thấy được hành trạng của quý Ngài luôn hiện hữu trong mỗi tâm thức của chúng ta. Trong ý thức Về Nguồn – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư bừng sáng, làm sống dậy ngụm nước đầu nguồn, sức sống uyên nguyên của dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

 

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

Sydney, Úc Châu, Chùa Pháp Bảo

Ngày 27 tháng 9 năm 2014

Thích Nguyên Siêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7198)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4227)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4861)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5633)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6229)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3853)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5298)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5347)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13012)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11587)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567