Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử HT. Thích Tâm Thanh

09/04/201318:52(Xem: 14138)
Tiểu sử HT. Thích Tâm Thanh

htthichtamthanh


Tiểu Sử
Cố Hòa Thượng
THÍCH TÂM THANH

ViệnChủ Vĩnh Minh Tự Viện

I. Thân Thế:

Hòa thượng pháp danh thượng Tâmhạ Thanhtự Giải Tịnhhiệu ChơnNghiêm, thế danh Lê Thanh Hảisinh năm Tân Mùi ( 1932 ) tại xứ Mã Châu, xã Duy An, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Thân phụ là cụ ông Bồ Tát giới, húy Dương Cần tự Lê Nghiêm hiệu Viên Minh pháp danh Thị Tịnh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Qua.

Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây. Hòa Thượng đã lớn lên với rất nhiều hoài bão cùng tài năng bẩm sinh. Chính Hòa Thượng đã từng được cử thay mặt học sinh đồng ấu đọc một bài diễn văn bằng tiếng Pháp để đón vua Bảo Đại khi vua vào thăm Quảng Nam, khi ấy Ngài mới lên 10 tuổi. Ở tuổi vị thành niên, Hòa Thượng đã trở thành một họa sĩ nổi tiếng, đặc biệt là tài viết chữ. Bằng trái tim nhiệt huyết của tuổi trẻ, Hòa Thượng đã tham gia các phong trào đấu tranh giành độc lập tự do cho quê hương đất nước. Nhờ nghiên cứu Phật học từ rất sớm nên Hoà Thượng đã chọn tổ chức Gia Đình Phật Tử để tham gia sinh hoạt và đấu tranh cho chính nghĩa chống chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm. Hòa Thượng đã đến xin quy y thọ 5 giới với Hòa Thượng Phổ Thiên húy thượng Trừng hạ Kệ tự Như Nhu hiệu Tôn Thắng và được Hòa Thượng ban cho pháp danh là Tâm Thanh.

Là một thành viên nòng cốt của tổ chức Gia Đình Phật Tử Quảng Nam, Hoà Thượng đã cống hiến hết mình cho tổ chức và trong mùa pháp nạn 1963, Hoà thượng đã đồng lao cộng khổ cùng chư tôn đức cũng như Gia Đình Phật Tử Quảng Nam đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo. Trong mùa pháp nạn này, Hòa Thượng bị chính quyền Ngô Đình Diệm đánh đập dã man và vào tù ra khám không biết bao nhiêu lần cũng chỉ vì bảo vệ Đạo Pháp và sự tự do bình đẳng của Dân Tộc.

II. Xuất Gia Học Đạo:

Chính sự hăng say công tác và nhận thức đúng đắn đã thúc đẩy Hòa Thượng xuất gia tu học. Năm 1963, Hòa Thượng được Hòa Thượng thượng Chơn hạ Ngọc hiệu Long Trí thế phát trước sự chứng minh của chư tôn đức tại Quảng Nam và sự tham dự của toàn thể Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Quảng Nam. Sau đó Hoà Thượng Long Trí đã gởi Ngài ra học tại Phật Học Viện Phổ Đà-thành phố Đà Nẵng. Nhận thấy Ngài có tài năng xuất chúng, Hòa Thượng Phổ Thiên cùng Hòa Thượng Long Trí đã đưa Ngài vào Sài Gòn tu học.

Năm 1964 Hòa thượng thọ giới Sa Di, được Hoà Thượng Long Trí ban pháp tự là Giải Tịnh và cho theo học lớp Cao Đẳng Phật Học tại Phật Học Viện Huệ Nghiêm. Năm 1966, Hoà thượng thọ Tỳ kheo giới tại giới đàn Quảng Đức do Hoà Thượng Thích Thanh Thạnh làm đàn đầu và được Hòa Thượng Phổ Thiên cho hiệu là Chơn Nghiêm. Trong thời gian này Hòa Thượng cũng theo học tại Đại học Vạn Hạnh.

III. Thời Kỳ Hành Đạo:

Sau khi tốt nghiệp lớp Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm khoá đầu tiên, Hòa Thượng đã trở thành một vị giảng sư nổi tiếng của Giảng Sư Đoàn Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và được cố Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Thích Thiện Hoa mời về chùa Ấn Quang để đi giảng dạy khắp các tỉnh thành. Đầu tiên, Hòa Thượng được Hòa thượng Thích Trí Hữu - người khai sơn Tổ đình Ấn Quang mời về quê hương Quảng NamĐà Nẵng thuyết pháp. Những pháp âm đầy đạo vị bắt đầu vang vọng từ quê hương lan đến khắp các tỉnh thành từ Quảng Trị vào đến Cà Mau.

Năm 1970, Hòa Thượng về nhận chức Chánh đại diện GHPGVNTN khu Bảy Hiền – Gia Định, nơi các đồng bào Quảng Namvào an cư lạc nghiệp. Nhờ đức độ tài năng và sự làm việc không mỏi mệt, Hoà Thượng đã trùng tu chùa Phổ Hiền, thành lập Gia Đình Phật Tử Đức Trung, vận động làm đường Hồ Tấn Đức (tức đường Võ Thành Trang ngày nay), xây dựng trường Bồ Đề Hạnh Đức (tức trường Võ Văn Tần ngày nay)và giữ chức Giám đốc điều hành toàn bộ trường học này. Vừa làm Chánh Đại Diện khu Bảy Hiền vừa làm Giám đốc trường Bồ Đề, Hòa Thượng vẫn luôn luôn đi giảng dạy các Phật Học Viện Dược Sư, Từ Nghiêm v.v… tại Sài Gòn và đi thuyết pháp các tỉnh. Hòa Thượng còn giữ quyền Giám đốc ký nhi viện Quách Thị Trang trong những lúc Thượng Tọa Giám đốc Thích Nhật Thiện đi vắng.

Năm 1971, Hòa Thượng lên Đại Ninh thăm Hòa Thượng thượng Thiền hạ Tâm - giáo thọ trưởng trường Phật Học Huệ Nghiêm đang nhập thất tại trú xứ Hương Nghiêm. Hòa Thượng được Hoà Thượng Thiền Tâm giới thiệu và nhận một quả đồi phía trên tu viện Hương Nghiêm do phật tử Mười hiến cúng. Hòa Thượng bắt đầu xây dựng một thạch thất nơi núi rừng hoang vắng này để về tịnh dưỡng sau những ngày đi thuyết pháp và làm Phật sự khắp nơi. Sau lễ Phật đản 1973, Hòa Thượng đã về Đại Ninh nhập thất tu tập thiền định và một mình lặng lẽ với công án tử sinh.

Đầu năm 1975, tình hình chính sự đất nước có sự biến đổi, Hòa Thượng đã quyết định rời thất một thời gian về lại Phổ Hiền cùng với đồng bào Quảng Nam đồng cam cộng khổ vượt qua cơn lửa binh ly loạn. Hòa thượng tổ chức chuẩn bị lương thực y tế và đặc biệt cố vấn tinh thần cho đồng bao Phật tử ở khu Bảy Hiền trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này. Chiến tranh chấm dứt hòa bình lập lại, Hòa Thượng trở lại núi rừng Đại Ninh vui với cỏ cây muôn thú gác ngoài tai mọi chuyện thế sự.

Năm 1976 , Hòa Thượng lại trở về vận động tổ chức trùng tu chùa Phổ Hiền thành ngôi chùa khang trang tráng lệ. Xong việc lại về Đại Ninh tỉnh tu.

Năm 1978, Hòa Thượng về trùng tu chùa Ba Phong và từ đó về sau Ngài góp phần trùng tu rất nhiều ngôi chùa tại quê hương Duy Xuyên - Quảng Nam.

Năm 1988, nhận thấy duyên hoá độ có nhiều thuận lợi, Hoà Thượng quyết định xây chùa ngay phía trên tịnh thất Chơn Nghiêm lấy hiệu là Vĩnh Minh Tự Viện với ý xiển dương giáo pháp Tịnh Độ của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ - tổ thứ 6 của Tịnh Độ tông, một phần lấy ý ghép tên tổ Vĩnh Gia - một vị tổ sư cận đại tại Quảng Nam và tổ Minh Hải - tổ sư khai sơn môn phái chúc Thánh. Ngôi chùa nhỏ nhắn nơi núi đồi Đại Ninh thơ mộng đã trở thành điểm tựa tinh thần cho dân chúng khắp các làng quê Đức Trọng-Lâm Đồng. Pháp âm Tịnh Độ được vang vọng mỗi chiều cho Tăng Ni và Phật tử tại trú xứ về nghe, giới hạnh và lòng vị tha cứ mãi lan tỏa từ địa phương đến các tỉnh thành và hải ngoại.

Năm 1995, Hòa Thượng lại vận động đại trùng tu Vĩnh Minh Tự Viện, từ đó về sau cứ mỗi năm Hòa thượng lại khánh thành một công trình nhân ngày kỵ tổ Phổ Thiên: Giảng đường, Khánh đường, Tăng xá, Pháp bảo, các tượng đài, Bảo tháp v.v… khiến Vĩnh Minh Tự Viện trở thành một Tòng lâm nổi tiếng với cảnh trí hài hoà u nhã. Đồng thời, Hòa Thượng cũng vận động tráng nhựa hương lộ Phú An, làm cầu treo qua sông Thiện Chí v.v….

Từ đó, pháp âm từ núi rừng Đại Ninh vang vọng nên chư Tăng Ni và Phật tử khắp mọi nơi về thọ giáo quy y. Hòa Thượng cũng từng ra đảm nhiệm chức vụ Phó Ban Trị Sự kiêm Trưởng Ban Hoằng Pháp Gíáo Hội tỉnh Lâm Đồng, Hiệu Phó kiêm Giám Luật trường Cơ Bản Phật Học Lâm Đồng khóa I và II. Đồng thời đi giảng dạy truyền đạt kinh nghiệm giảng sư cho Tăng Ni sinh khắp nơi.

Đầu năm 2003, Hòa thượng cảm thấy tuổi già sức yếu, nhân ngày kỵ tổ Phổ Thiên, Hoà Thượng tổ chức khánh thành bảo tháp xá lợi Minh Tích Ấn, công trình cuối cùng của đời Ngài. Trước sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Từ Mãn –Thành viên Hội Đồng Chứng Minh TW, Trưởng Ban Trị Sự Giáo HộI tỉnh Lâm Đồng và chư tôn đức trong môn phái, Hòa Thượng đã phó chúc cho Đại Đức Thích Nguyên Hiền kế vị trú trì Vĩnh Minh Tự Viện và phát nguyện nhập thất tĩnh tu quyết liễu sanh thoát tử. Lễ nhập thất của Hòa Thượng được long trọng tổ chức vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mùi dướI sự chứng minh của Hòa Thượng Thích Pháp Chiếu – thành viên Hội Đồng Trị Sự TW-phó ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng.

IV. Những Ngày Cuối Cùng:

Tịnh thất Chơn Nghiêm tọa lạc sau khu pháp bảo yên tỉnh, Hòa Thượng bắt đầu hạ thủ công phu. Mỗi ngày dành thời gian tụng lại toàn bộ các kinh điển Đại Thừa và Nikaya. Trong lúc trì tụng, Hòa Thượng thấy có quá nhiều chi tiết đặc biệt mà hàng hậu thế khó lòng kham đọc hết nếu không có thời gian yên tỉnh. Với tâm lượng vị tha, vì lợi lạc quần sanh nên Hòa Thượng đã rút tỉa các ý chính trong kinh điển và ghi chú từng phẩm mục, từng chi tiết và soạn thành tác phẩm: Những Đề Mục Quan Yếu Trong Kinh Điển Đại Thừa (bao gồm kinh Bảo Tích, Hoa Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn, Bát Nhã)và tác phẩm Những Đề Mục Thiết Cận trong các kinh Nikaya ( bao gồm kinh Tăng Nhất A Hàm, Tạp A Hàm, Tương Ưng Bộ). Suốt gần 1 năm trời hoàn tất hai tạng kinh Đại Thừa và Nikaya. Hòa Thượng lại gia hạnh công phu niệm Phật. Tiếng niệm Phật vang vọng trong tịnh thất suốt ngày đêm. Sau lễ kỵ tổ rằm tháng 2 năm Giáp Thân, Hoà Thượng thường xuyên kể lại cho đệ tử nghe những giấc mơ thấy chư thiên thỉnh lên trời Đao Lợi thuyết pháp hoặc gặp Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền giao phó Phật sự độ sanh.

Sáng ngày 30/2/Giáp Thân, Hoà Thượng cảm thấy tứ đại bất an và sức khỏe dần suy yếu. Biết cơ duyên hóa độ của mình đã mãn nên ngày mồng 5 tháng 2 nhuận năm Giáp Thân, Hòa Thượng cho gọi Đại Đức Nguyên Hiền - trụ trì Vĩnh Minh Tự Viện cũng như hàng môn đồ vào tịnh thất dặn dò mọi việc, khuyến tấn tu hành cũng như hướng dẫn Phật tử tu học. Dặn dò xong Hòa Thượng đã chắp tay niệm to danh hiệu A Di Đà Phật như một cách Yết Ma và Ngài đã an nhiên xả báo thân vào lúc 6 giờ 15 phút sáng ngày 13 tháng 2 nhuần năm Giáp Thân nhằm ngày 2 tháng 4 năm 2004 thọ 72 thế tuế và trảI qua 40 mùa kiết hạ An Cư.

Với hơn 40 năm tu học và hoằng pháp, Hòa thượng đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp. Hòa Thượng đã đảm nhận nhiều chức vụ Giáo Thọ, Yết Ma trong các giới đàn để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni Phật tử tu học. Các băng giảng Pháp Hoa, Duy Thức v.v.. của Ngài là một kho báu cho những ai khát khao tìm cầu sự giải thoát. Hòa thượng không chủ trương viết sách nhưng với những kinh nghiệm tu học, hoằng pháp cũng như khảo cứu của mình, Hòa thượng đã để lại những tác phẩm như: Danh Từ Phật Học, Nghệ Thuật Diễn Giảng, Những Đề Mục Quan Yếu Trong Kinh Điển Đại Thừa, Những Phẩm Mục Thiết Cận Trong Các Kinh Nikaya và nhiều bài viết trong các tập san Phật giáo cùng nhiều tài liệu giảng dạy khác.

Xuất thân từ tổ chức Gia Đình Phật Tử và nhận thấy tổ chức này là một tổ chức giáo dục thanh thiếu niên rất lợi lạc cho đạo đức và văn hoá Phật giáo cũng như Dân tộc nên Hòa Thượng luôn quan tâm và gắn bó với GĐPT. Như một tấm gương sáng về giới hạnh và đức độ, như một bóng cây đại thọ ấp ủ, chở che, Hòa Thượng đã được suy tôn là Cố Vấn Giáo Hạnh Trung Ương Gia đình Phật Tử Việt Nam trong nhiều thập niên và cho đến ngày viên tịch.

Chốn Huyễn Hoá Tám Vạn Khói Sương, Ly Hợp Sắc Danh, Chiếc Áo Nâu Sồng, Cửa Không Hương Điểm Hạnh.

Cõi Mộng Trần Ba Nghìn Bóng Bọt, Tụ Tan Thân Thế, Một Đài Sen Trắng, Cõi Tịnh Nguyệt Cài Thơ.

Tuy ngôn ngữ trầm phù của thế gian không chuyển tải hết được công hạnh của Ngài nhưng chúng con cung kính ghi lại vài dòng lược sử của Hòa Thượng như một nén nhang đảnh lễ thâm ân của một bậc lương đống trong ngôi nhà Phật pháp. Ngưỡng nguyện giác linh Hòa Thượng cao đăng Thượng Phẩm và hồi nhập Ta Bà tiếp tục sứ mệnh cao cả thiêng liêng: hóa độ chúng sanh đồng về bến giác.

Nam Mô Tân Viên Tịch Tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Khai Kiến Vĩnh Minh Tự Viện, húy thượng Tâm hạ Thanh tự Giải Tịnh hiệu Chơn Nghiêm Lê Công Hòa Thượng Giác Linh Thùy Từ Chứng Giám.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2010(Xem: 6326)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi. Sinh chính quán của tôi là làng Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng, ven chân dãy núi Hoành Sơn.
03/10/2010(Xem: 5520)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai hại. Chúng ta nên biết: "Bồ Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phú đó là hóa thân Bồ tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
03/10/2010(Xem: 7625)
HT Minh Tâm (Khinh Anh) , 50 năm một đời người - Một đời đạo Pháp - phần 1 - Ngày Vía Quan Âm sắp đến.. 19 tháng 2 năm Giáp Ngọ . Chùa Phật Ân Tổ chức lễ Hoàn Nguyện , sau hai năm trùng kiến Ngôi Chánh Điện lần cuối và một số hạng mục khác. Vì nhân duyên đó , xin giới thiệu đến với quý thiện nam tín nữ , Phật tử gần xa , các Bậc Thiện Tri Thức . Một chuỗi hình ảnh của thầy Minh Tâm đã chuyển thể qua video , từ năm 1963 - 2014 . với nhan đề : THẦY MINH TÂM , 50 NĂM MỘT ĐỜI NGƯỜI - MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP . Trong quá trình sưu tầm , dàn dựng . Sai sót là điều khó tránh khỏi , kính mong quý vị hoan hỷ . NAM MÔ HOANG HỶ TẠNG BỒ TÁT .
29/09/2010(Xem: 8686)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 6108)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
23/09/2010(Xem: 5492)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ sanh năm 1922, tại ấp Mỹ Thủy, xã Thạnh Mỹ Lợi, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoạch, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ngọc.
19/09/2010(Xem: 6968)
Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy.
04/09/2010(Xem: 4835)
"Cây héo vào xuân hoa nỡ rộ Gió đưa nghìn dặm nức hương thần." Thiền Uyển Tập Anh ( Anh Tú Vườn Thiền) ghi về sư như sau: " Thiền Sư Viên Chiếu (999-1090) thuộc thế hệ thứ bảy dòng Vô Ngôn Thông.Thiền Sư họ Mai, tên Trực người huyện Long Đàm châu Phúc Điền, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý. Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưỡng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ.
21/08/2010(Xem: 8382)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
18/07/2010(Xem: 6432)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567