Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Dấu ấn thần tưọng trong đời tôi (Nguyên Trí NVT)

17/06/201408:31(Xem: 19875)
51. Dấu ấn thần tưọng trong đời tôi (Nguyên Trí NVT)

blank
Nguyên Tuệ và Nguyên Trí đảnh lễ HT. Phương Trượng
trong Khóa Huân Tu Tịnh Độ tại chùa Viên Giác, 2013

Đầu năm 1991 gia đình tôi được đoàn tụ tại nước Đức. Chân ướt chân ráo tôi đặt chân lên nước Đức đất khách quê người không một người thân, bất đồng ngôn ngữ, một chữ Đức bẻ đôi không biết, vì học vấn của tôi quá ít qua lớp Đệ Thất quê nhà bị chiến tranh nên phải vào Nha Trang sinh sống do vậy việc học bị gián đoạn từ lúc 12 tuổi. Đến nước Đức đoàn tụ gia đình ở tại trại Nazarech được anh Thị Lộc, Gia đình Phật Tử Minh Hải và cô Thị Khiêm (tức Sư Cô Hạnh Thông bây giờ) hướng dẫn đưa về Hannover gặp Thầy Trụ Trì chùa Viên Giác tức Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng hiện nay.

Thật là một đại phước duyên cho tôi, bản thân tôi vì nghiệp dày phước mỏng bận bịu gia duyên nên không có nhân duyên xuất gia, nhưng được Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở Ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần, nhất là việc tu tập v.v… Tôi áp dụng những gì Ngài chỉ bảo để tiến tu trên con đường học đạo.

Thời gian dài, cuộc sống trong xã hội dồn dập bao nhiêu chuyện thị phi ngoài đời, trong đạo, nhưng tôi được diện kiến rất gần với Ngài, cuộc sống của Ngài rất đơn thuần, phong thái của Ngài rất giản dị và hiền hậu. Nhớ lại tháng 10 năm 2010 Ngài nhập Thất ở Thất Đa Bảo Úc Châu để dịch quyển ’’Chết an lạc tái sanh hoan hỷ”, nguyên tác Anh Ngữ của Đại Sư Tulku Thondrup, và viết quyển tiểu thuyết “Giai nhân và Hòa Thượng’’ tôi được may mắn theo Ngài hộ Thất thời gian 3 tháng trên núi cao, chỉ có hai Thầy trò nên mới biết Ngài rất rõ. Ngài khó với những ai không chịu học, làm việc không giữ đúng giờ giấc, không tinh tấn tu tập. Cái khó của Ngài là nuôi dưỡng hạt giống từ bi tạo cho con người được trưởng thành, còn ngoài ra Ngài rất dễ, bản thân tôi những ngày hộ Thất ở Đa Bảo Úc Châu, ngoài việc lái xe đi siêu thị 2 lần một tuần mua thức ăn, hằng ngày đơn giản nấu 3 bữa cơm sáng, trưa và chiều. Thời gian chia ra một ngày 4 thời kinh, sáng tụng Lăng Nghiêm, trưa tụng Phổ Môn, chiều tụng kinh A Di Đà, tối tụng kinh Kim Cang, đúng giờ đúng giấc nên tôi, được Thầy khuyến tấn và cũng rất dễ dãi với tôi. Ngài ăn uống rất chừng mực không hơn, không kém dù cho bữa ăn đó thức ăn có cao sang mỹ vị, hay đơn giản, nhất là buổi trưa Ngài chỉ ăn một chén cơm, với thức ăn, ngoài ra Ngài không ăn vặt phi thời. Ngài thương mọi loài chúng sanh, cứ sau bữa ăn sáng Thầy đem những thức ăn ra chia cho đàn kiến, hoặc cho đàn chim két kêu ríu rít bay nhảy trên cành. Thầy trầm tư có lần Thầy nói với tôi biết thuở nào đàn kiến, và những con chim chúng có dịp được ăn như thế này. Đối với loài vật Ngài còn thương như thế đó.

Tấm lòng bao la độ lượng của Ngài, Ngài giúp tài thí cho mọi Tăng, Ni sinh mà Ngài có duyên gặp, nhất là hằng năm ngài cấp học bỗng cho 100 Tăng, Ni sinh theo học lấy bằng Tiến Sĩ tại Ấn Độ. Mỗi Tăng, Ni sinh hằng năm được nhận 600 Dolla, ngoài ra Ngài còn giúp cho các Tăng Ni sinh các nước như Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan v.v… nơi nào có Tăng, Ni sinh Việt Nam cần là Ngài đều giúp đỡ. Ngoài ra hằng năm Ngài ủng hộ từ thiện cho những mảnh đời bất hạnh tại Việt Nam, người khuyết tật, người mù, già yếu bệnh tật nghèo khổ, trẻ em mồ côi v.v… Nơi nào xảy ra thiên tai bão lụt, sóng thần, động đất như ở Nhật Bản, Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, Phi Luật Tân, Việt Nam v.v… làm cho con người phải mang nghiệp khổ, cũng đều có cánh tay mở rộng cứu giúp của Ngài. Tình cảm thương yêu của Ngài đối với đại chúng, đối với mọi người thật dạt dào. Mỗi lần đi Phật sự nơi xa Ngài đều mang vật lưu niệm về tặng cho Phật tử, quà, bánh, trái cây, như chuối, mít, xoài, hay kẹo bánh Schokolade v.v... cho đại chúng cùng hưởng lộc.

Trong đời này tôi có một đại nhân duyên phước đức, một Phật tử tại gia như tôi mà được theo hầu Ngài một vị Hòa Thượng tài ba lỗi lạc, có những lần đi hành hương các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Sri Lanka, Ấn Độ, hay dự các khóa tu học Âu Châu ở Thụy Điển, Đan Mạch, Ý, Bỉ, Áo, Anh Quốc v.v… được nghe Ngài giảng pháp. Ngài nói lưu loát nhiều thứ tiếng, dịch nhiều kinh sách qua nhiều ngôn ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nhật,… Cho đến nay Ngài đã viết và dịch trên 62 đầu sách để lại cho hậu thế mai sau. Ngài quả là một kho tàng trí tuệ sống, một trí nhớ tuyệt vời của Ngài, lịch sử đất nước Việt Nam qua nhiều thời triều đại Ngài nhớ rất rõ, nhất là những bài thơ từ thuở học trò bây giờ Ngài đọc lại vanh vách, trong những lần tạm ngưng các bài giảng pháp, bài thơ Nhớ Chùa của cố Hòa Thượng Mãn Giác gồm 36 câu, 252 chữ Ngài ngâm thơ không sót chữ nào.

Từ khi ra đi du học đến giờ Ngài chưa một lần đặt chân về đất mẹ Việt Nam, nhưng tâm Ngài luôn luôn hướng về quê hương thương yêu những con người Việt Nam, do vậy bài thơ Nhớ Chùa là đề tài đầu tiên. Tôi còn nhớ năm 2010 tôi lái xe trong một chuyến đi từ Sydney đến Canberra thăm chùa Vạn Hạnh ở nước Úc, đường dài trên 250 km Ngài với một vị Thượng Tọa cùng đi trên chuyến xe, để kiểm chứng lại trí nhớ hai vị đã đọc hết bản kinh Di Giáo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn. Còn ở Đức khi lái xe đưa Ngài đi Phật sự thì khỏi cần dùng Navigation chỉ đường, không con đường nào Ngài không nhớ, địa chỉ nào Ngài cũng không quên một khi Ngài đã đến. Trên đường đi Ngài luôn luôn nhắc nhở lái xe cẩn thận, và nói những mẩu chuyện ngắn. Ngài ban những pháp thoại quý báu do vậy mà suốt trong thời gian lái xe tôi không buồn ngủ đưa Ngài đi Phật sự được hoàn mãn an toàn, đi đến nơi về đến chốn.

Trên 23 năm, mỗi lần tôi về chùa làm công quả hay sinh hoạt dự các khóa tu tại chùa Viên Giác một tuần, 10 ngày hay 15 ngày, tôi thường nghe Ngài dạy là người đệ tử của Phật, phải hạ thủ công phu chuyên trì bái sám, tụng niệm, kinh chú thì con đường tu tập mới tăng tiến được. Ngài trên 50 năm mỗi sáng Ngài tụng Kinh Lăng Nghiêm không bỏ một ngày, việc bái sám lễ lạy hằng năm cứ vào mùa an cư kiết hạ lạy kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi tối lễ lạy trên 300 lạy nhứt tự nhứt bái suốt trong thời gian mùa an cư. Nhờ đạo hạnh của Ngài ánh sáng hào quang chiếu rọi mà hàng Phật tử tại gia ở chùa Viên Giác nói riêng, trong các đạo tràng ở nước Đức nói chung có rất nhiều vị Phật tử thuộc làu Kinh Lăng Nghiêm.

Tuy Ngài làm việc nhiều, sáng tác nhiều đầu sách dịch kinh hăng say, có tài hùng biện, giảng pháp, dạy học v.v... nhưng bao giờ Hòa Thượng cũng luôn luôn khiêm tốn Ngài nói rằng, Hòa Thượng là một nông dân của quê hương xứ Quảng. Và trong suốt quá trình hoạt động đó Hòa Thượng luôn nguyện rằng: “Mình là một dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và sẽ là mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế”.

Nhân Sinh Nhật 65 tuổi Tây (1949 – 2014) tức 66 tuổi Ta của Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác,

50 Năm Xuất Gia và Hành Đạo, chúng con/chúng tôi xin viết một vài dấu ấn thần tượng trong đời tôi với vị Thầy khả kính.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 18212)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7649)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6477)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 5957)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6514)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7105)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6922)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11124)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6183)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 6744)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]