Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thích Tuệ Hải (1927-2011)

07/10/201317:15(Xem: 13296)
HT Thích Tuệ Hải (1927-2011)


ChuaKimLien_HTTueHai

TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ HẢI

1- Thân thế

Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 45. Pháp danh: Quảng Đại, Pháp hiệu Ấn tạng, Pháp tự Tuệ Hải, thế danh là Hồ Văn Đạo. Thân phụ là ông Hồ Văn Đạt – một danh nho trong làng. Thân mẫu là cụ bà Trương Thị Nhâm – Pháp danh Nguyên Ngọc. Ngài khánh sanh vào tháng giêng năm Mậu Thìn – 1927 tại làng Thanh Lương, xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Định. Ngài là con trai út trong gia đình có truyền thống thuần thành kính tin Phật pháp.

Do đó, trong gia tộc có những vị gọi Hòa Thượng là chú, là cậu, hiện nay cũng là giáo phẩm Phật giáo đang phục vụ đạo pháp trong và ngoài nước.

2- Xuất gia học đạo

Cũng nhờ phước duyên tiền kiếp và sống trong nếp sống truyền thống Phật giáo của gia đình nên Phật chủng được gieo trồng và nuôi dưỡng tốt tươi.

Sau khi học hết chương trình tiểu học, vào ngày 12/7 năm Ất Dậu – 1945. Hòa Thượng đã xin phép cha mẹ đi xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Chơn – Trụ trì chùa Từ Quang. Lúc này Hòa Thượng vừa tròn 17 tuổi.

Sau khi xuất gia, Ngài đã chuyên tâm tu học và nghiên cứu để rèn luyện ý chí của một vị xuất trần thượng sĩ.

Năm Đinh Hợi và Mậu Tý – 1947 – 1948 Hòa Thượng được Bổn Sư cho ra tu học với Hòa Thượng Thích Bảo Hiền tại Tổ đình Trùng Khánh – tỉnh Ninh Thuận.

Năm Kỷ Sửu – 1949 Ngài được Hòa Thượng Thích Bảo Hiền cho ra tu học tại Phật học Đường Phan Rang. Do Hòa Thượng Thích Trí Thắng trụ trì Tổ đình Thiên Hưng làm Giám đốc.

Đến năm Tân Mão – 1951 vì chiến cuộc ác liệt áp sát vào thị xã Phan Rang cũng như đời sống kinh tế đang khó khăn nên trường giải tán. Vì thế Hòa Thượng trở về chùa Từ Quang tiếp tục tu học và thọ Phương Trượng Sa Di lúc Ngài 23 tuổi. Nên có Pháp tự là Tuệ Hải.

Nhờ phúc duyên sẵn có nên năm Nhâm Thìn – 1952, Hòa Thượng được Bổn Sư đưa ra nhập học ở Phật học đường Trung Phần Hải Đức tại Nha Trang do Tổng Hội Phật Học Trung Phần đào tạo được chư tôn đại đức Thích Trí Thắng, Thích Thiện Minh làm Giám đốc cùng với Ban Giáo thọ có các Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Hòa Thượng Thích Định Tuệ, Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Hòa Thượng Thích Viên Giác, Hòa Thượng Thích Từ Mãn, Hòa Thượng Thích Tra Am trực tiếp đào tạo.

Năm Bính Thân 1956, sau 04 năm Trung cấp. Nhận thấy Ngài có thể làm Pháp khí trong Phật pháp nên bổn sư cho thọ Giới Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn lần đầu tiên được khai mở để kỷ niệm ngày Thành Đạo – 08 tháng Chạp do Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, kiêm Hội Trưởng Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần làm Đàn Đầu Đại Giới Đàn này và Hàng Thập Sư do Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa gồm ba Miền Trung, Nam, Bắc thỉnh cử. Trong thời gian này Ngài đương là giảng sư của tỉnh Khánh Hòa, nên được miễn khảo hạch cùng một số học tăng do Phật học viện đào tạo.

3- Hoằng Dương Đạo Pháp

Mặc dù còn đang tiếp tục học tập và đào tạo nhưng với nhu cầu Phật sự tại các tỉnh thành đến hạ tầng cơ sở sau nhiều năm đình trệ vì chiến cuộc tiếp diễn, nên chủ trương của hai Tổng Trị sự Phật giáo Trung Phần phải vừa học vừa phải thừa hành công tác Phật sự chỉnh đốn hạ tầng về tổ chức hai mặt là tôn giáo tính và đoàn thể tính theo các tiêu chí sau đây:

1- Giáo dục kĩ thuật lãnh đạo cho các Ban trị sự.

2- Nuôi dưỡng ý chí phục vụ đạo pháp.

3- Khai thác kinh nghiệm công tác tại tỉnh hội.

4- Ý thức đầy đủ trách nhiệm hoằng pháp của Giảng sư đoàn.

5- Đề cao thành tích hoạt động các cấp Giáo Hội.

Hòa Thượng đã từng là Trưởng phái đoàn đại diện tổng trị sự trong các chuyến hoằng pháp tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Ban Mê Thuộc, Phú Yên, Quảng Ngãi.

Tháng 2 năm Đinh Dậu – 1957, Ngài được Hòa Thượng Chánh Hội Trưởng Thích Thiện Minh đại diện Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần đề cử Giảng sư kiêm trụ trì và Hội trưởng chi hội đầu tiên tại Diên Khánh và kiêm nhiệm giảng sư phụ trách cả tỉnh từ Tu Bông – Vạn Giả - Ninh Hòa và Cam Ranh.

Ngoài ra Hòa Thượng được Giáo Hội Tăng Già thỉnh cử vai trò như thư ký Giáo Hội cuối thời Hòa Thượng Thích Hưng Từ làm Trị Sự Trưởng tỉnh Khánh Hòa hai nhiệm kỳ vào năm 1958 – 1961.

- Năm Tân Sửu 1962, Hòa Thượng được Tổng trị sự Trung Phần bổ nhiệm làm giảng sư, kiêm chánh đại diện Tỉnh Hội Phật Giáo Quảng Trị, thay thế Thượng tọa Thích Đức Minh theo văn thư số 311.TTS.PGTP đề ngày 14/3/1962.

- Năm Giáp Thìn 1964, Hòa Thượng lại được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN lưu chuyển vào làm Trụ trì kiêm Chánh đại diện GHPGVNTN tỉnh Lâm Đồng, đồng thời làm Giám đốc Trung Tiểu Học trường Bồ Đề tại thị xã Bảo Lộc.

- Năm Mậu thân 1968, Hòa Thượng xin nghỉ việc và từ đó mới có thời gian về xây dựng chánh thức Ngôi Kim Liên Bửu Tự này. Mặc dù không còn công tác Phật Sự xa xôi nữa nhưng Hòa Thượng vẫn được Giáo Hội mời tham gia Phó Đặc Ủy Tăng Sự tỉnh Khánh Hòa và cố vấn cho Ban Đại diện GHPGVNTNDK từ năm 1971 – 1981.

4- Khai Hóa Kim Liên Bửu Tự

- Y cứ theo lời dạy của Ngài Ngộ Đạt Sự “Rằng chúng ta muốn báo ân Như Lai trong thời này thì phải dõng mãnh tinh tấn, chịu cực nhọc không tiếc thân mạng để kiến lập ngôi Tam Bảo, truyền bá Phật pháp, hóa độ chúng sanh đồng vào chánh giác”.

Do vậy, từ năm 1962, Hòa Thượng xây dựng một tịnh thất nhỏ nhằm để nghiên cứu phật pháp và an dưỡng sau những tháng ngày công tác diễn giảng và Phật sự tại các tỉnh giáo hội trở về nghỉ dưỡng thời gian, một, hai tháng rồi đi lại.

- Đến năm 1968, Hòa Thượng mới xin phép Giáo hội để được nghỉ và bắt đầu xây cất chánh điện ngôi Kim Liên Bửu Tự và nhà tăng.

Do Hòa Thượng Chánh đại diện Thích Trí Nghiêm ký ngày 12/7/1968 và xây dựng đến năm 1970 mới tạm hoàn thành.

Trải qua bao gian khó Hòa Thượng vẫn luôn luôn giáo huấn, hướng dẫn sách tấn hàng phật tử xuất gia cũng như tại gia phải siêng năng tu học giữ vững đạo tâm cố gắng làm tốt đời đẹp đạo để không hổ danh là người con phật.

ChuaKimLien_1
ChuaKimLien_2

5- Viên Tịch

Than ôi! Cuộc đời như quán trọ, đến rồi đi như đại mộng thoáng qua. Trong lúc Phật sự đang hanh thông, duyên độ sanh đang thênh thang rộng mở. Sức khỏe của Ngài đang tốt. Nhưng vô thường nào có hẹn với ai.

Sau chuyến đi dự lễ khánh thành một ngôi chùa tại Thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng căn bệnh tai biến bất ngờ ập đến, khiến Người nằm đó như xa xôi diệu vời. Mặc dầu được các y bác sĩ tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng, Bệnh viện Chợ rẫy, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa tận tình giúp đỡ nhưng vì tuổi già sức yếu nên Ngài không thể vượt qua.

Đa đoan Phật sự một đời

Buông tay thuận thế vạn lời vô ngôn

Người về khai sáng Thiền môn

Người đi dấu tích còn tồn Tông phong

Vai trò sứ giả Như Lai của Ngài rồi cũng thuận theo đường sanh trụ dị diệt để trở về với cõi vô sanh.

Ngài đã an nhiên thị tịch vào lúc 9 giờ 45 ngày 30/4 năm Tân Mão, nhằm ngày 1/6/2011. Trụ thế 84 tuổi đời, 54 tuổi đạo.

Đạo pháp từ đây vắng đi một người hoàng hóa, tứ chúng môn nhơn vắng một vị thầy khả kính thân thương.

Chùa Kim Liên lặng thầm bao tiếc nhớ

Chốn thiền môn một thuở dấu chân người.

NAM MÔ TÂN VIÊN TỊCH, KHAI SƠN KIM LIÊN BỬU TỰ TỪ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ, THƯỢNG QUẢNG HẠ ĐẠI TỰ TUỆ HẢI HIỆU ẤN TẠNG HÒA THƯỢNG CHI GIÁC LINH.

( Hiện tại Đại đức Thích Nhuận Thành -trụ trì, kế thừa Chùa Kim Liên Bửu Tự, thôn Đông Dinh, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa). Điện thoại: 0905.124.122

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 732)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33680)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4668)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4634)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4597)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4554)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4875)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4601)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8586)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567