Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Tưởng Niệm (Giáo Hội)

24/09/201319:36(Xem: 8627)
Lời Tưởng Niệm (Giáo Hội)
HT_Thich_Chi_Tin

LỜI TƯỞNG NIỆM
GIÁC LINH TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH CHÍ TÍN

Của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch Chư Tôn Đức,

Trước khi cử hành lễ cung tống kim quan Trưởng lão Hòa thượng nhập Bảo tháp, nơi an nghỉ ngàn thu của trần thế, chúng tôi xin thay mặt Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Tăng Ni, Phật tử Việt Nam có đôi lời tưởng niệm.

Kính bạch Giác Linh Hòa thượng,

Từ Pháp giới duyên sinh vô tận, Hòa thượng hiện thân Đại sĩ, giữa phàm trần không nhiễm hồng trần. Nước sông Hương thao thao dòng diệu sử, núi Ngự Bình gió quyện mây lành, làng Hương Thủy sáng ngời tâm Phật, đất Thần kinh duyên lành kết trái. Xứ Trầm Hương thực hành Phật đạo, một đời thọ mạng, rồi an nghỉ ngàn thu nơi cõi tạm.

Hòa thượng vốn sẵn có duyên lành, nên đã sớm phát chí xuất trần, chốn Tổ Từ Hiếu xả tục cầu chơn nêu cao chí cả, được Hòa thượng Bổn sư thế độ xuất gia, ban Pháp danh Tâm Nhẫn, tự Hành Từ, pháp hiệu Chí Tín, nối pháp dòng Thiền Liễu Quán đời thứ 43. Kể từ đó, đường giải thoát lâng lâng nhẹ gót, giữa trần gian chẳng nhiễm sắc không, việc tham dục chẳng bận lòng người Thích tử, lẽ nhiệm mầu hiển hiện trong tâm.

Sau bao năm vun bồi cội phước, nỗ lực tu hành, rèn tâm luyện trí, rồi đến độ tâm hoa khai phát, theo luật Phật định kỳ, Hòa thượng đăng đàn thọ Đại giới, giới thể châu viên, chính thức dự vào hàng cập đệ, ngôi Tam Bảo tam tôn kế vị, đạo nghiệp từ đây phát tích, xứng danh con nhà họ Thích ngàn đời. Như Cổ đức đã nói:

“Nào ai biết được trời không ấy

Một dãy non xanh hiện đã lâu”

Với tinh thần vô ngã vị tha, đạo tâm trác thế, nêu cao truyền thống hòa hợp đoàn kết, quyết tâm xây dựng Đạo pháp và góp phần thống nhất Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã cùng Tăng Ni, Phật tử Khánh Hòa tiếp nối dòng sinh mệnh 2000 năm lịch sử của Phật giáo Việt Nam, xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tỉnh hội Phật giáo Phú Khánh và Khánh Hòa ngày nay. Trải qua nhiều nhiệm kỳ, với những cống hiến cao quý, Hòa thượng là một trong những vị Tôn túc được Tăng Ni, Phật tử tín nhiệm cung thỉnh vào ngôi vị tối cao Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo tỉnh nhà, được Đại hội đại biểu phật giáo toàn quốc lần thứ IV (1997) cung thỉnh vào ngôi vị Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày về cõi Phật.

Gần một phần ba thế kỷ hoằng dương Chánh pháp, làm bậc đống lương trong Phật pháp, mô phạm chốn rừng thiền, Hòa thượng là hiện thân của giới luật, là thọ mạng của Phật pháp. Trên cương vị Luật sư, Giới sư của các Giới đàn, Hòa thượng đã khai thông giới thân huệ mạng cho nhiều thế hệ Tăng Ni, Phật tử. Qua đó, từng lớp, từng đàn giới tử, giới thể châu viên trang nghiêm dòng diệu thể, trở thành pháp khí Đại thừa truyền trì mạng mạch Phật pháp, Trưởng tử Như Lai, tiến tu giải thoát, lợi lạc hữu tình, tốt Đời đẹp Đạo, đã không ngừng đóng góp cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh, trang nghiêm, hưng thịnh huy hoàng trong lòng dân tộc, để cho hoa đời hoa đạo đua nhau nở, mãi mãi ngàn sau tỏa ngát hương.

Trong ý nghĩa trang nghiêm ngôi Tam bảo, là trang nghiêm Tịnh độ tại nhân gian, Hòa thượng đã kiến tạo Kim thân Phật Tổ, Tôn tượng Phật nhập Niết bàn trang nghiêm, hùng vĩ, vẫn còn hiện hữu với thời gian vô cùng, không gian vô tận. Nhất là Hòa thượng đã cùng chư Tôn đức giá phẩm lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa, Tăng Ni và Phật tử trùng tu ngôi phạm vũ Sắc Tứ Long Sơn trang nghiêm tú lệ, xứng đáng là cơ sở của Giáo hội tại địa phương.

Bằng hạnh nguyện khứ lai vô ngại, tự tại tùy duyên, làm Phật sự như không hoa, độ chúng sinh như huyễn hóa, với chín ba năm hiện thế, sáu tám năm thực hành Bồ tát đạo, Đức Trưởng lão Hòa thượng đã cống hiến trọn đời cho Đạo pháp và Dân tộc, để rồi khi hạnh nguyện tròn xong, Ta bà quả mãn, Hòa thượng an nhiên thu thần viên tịch, trở về thế giới Niết bàn vô tung bất diệt.

Song công đức và đạo hạnh của Hòa thượng vẫn còn lưu lại thế gian, trong lòng người con Phật Việt Nam và trang sử muôn màu của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Quả thật: “Trăm năm trước thì ta chưa có, trăm năm sau có cũng hoàn không. Cuộc đời sắc sắc không không, chỉ còn lưu lại tấm lòng Từ bi. Giáo hội kính ghi công đạo hạnh, thế gian còn nhớ mãi bóng Chân nhân”.

Hôm nay, trong giờ phút nghìn thu vĩnh biệt này, Cố Hòa thượng hóa duyên đã mãn, trong pháp giới vô biên, Hòa thượng đã thong dong tự tại, vận thần thông đoan ngự cửu liên đài, xả Báo thân, chứng nhập Pháp thân, siêu Tịnh độ không rời uế độ. Giờ đây, trước Giác linh Hòa thượng, chúng tôi trong Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo tỉnh Khánh Hòa là những người bạn đồng hành, đồng sự pháp lữ Đại thừa trong Chánh pháp, xin thắp nén huơng lòng, tưởng niệm Giác linh Hòa thượng. Nguyện cùng nhau chung lưng đâu cật để xây dựng và phát triển ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Khánh Hòa ngày càng hưng thịnh, trang nghiêm vững mạnh trong lòng dân tộc. Như Cổ đức đã nói:“Một mai thân xác tiêu tan. Danh thơm vẫn ở thế gian muôn đời. Pháp thân lồng lộng tuyệt vời. Chiếu soi Pháp giới, rạng ngời sử xanh”. Để từ đó, Hoa đời Hoa đạo đua nhau nở, mãi mãi ngàn sau vẫn ngát hương.

Thôi, nơi thế giới Niết bàn vô tung bất diệt, Giác linh Hòa thượng hãy an nhiên tự tại. Nơi Bảo tháp Sắc Tứ Long Sơn uy nghiêm, nhục thân Hòa thượng hãy an nghỉ để ngàn thu in bóng, mãnh hình hài lồng lộng tựa hư không, sẽ sống mãi trong lòng pháp lữ, trong tư duy cùng pháp giới Chân như.

Xin bái biệt Hòa thượng !

NAM MÔ CHỨNG MINH SƯ BỒ TÁT MA HA TÁT.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10191)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14106)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11889)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16605)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12747)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6835)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]