Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Harvard vinh danh Thiền Sư Nhất Hạnh

17/09/201315:02(Xem: 21172)
Harvard vinh danh Thiền Sư Nhất Hạnh
Harvard vinh danh
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
cho sự nghiệp Trí tuệ - Từ bi - và Hòa bình
Lê Nguyêntổng hợp

Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tớicác vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.

Học viên là các Bác sĩ y khoa, các nhà Tâm lý học, Giáo chức, Nhà văn, Tác giả, Khảo cứu gia, v.v... Mỗi học viên là Bác sĩ y khoa phải chi trả tới 475 đô-la Mỹ cho khóa học chỉ có 2 ngày, thành phần còn lại được hưởng giá đặc biệt hơn nhưng cũng gần 400 Mỹ kim cho một người. Vậy mà con số ghi danh tham dự lên đến hơn 1100 người, và đó cũng là lý do chính để Ban tổ chức chọn thính đường lớn nhất của Boston Park Plaza Hotel làm nơi thuyết giảng.

Thíền tọa trong công viên sau một cuộc thiền hành

Chủ đề của khóa học là Thiền Tập và Tâm Lý Trị Liệu (Meditation and Psychotherapy) thế nên Chương trình đã dành trọn một ngày cho vị Thiền sư người Việt và tăng đoàn Làng Mai thuyết giảng và hướng dẫn thiền tập trong một khóa học chỉ có 2 ngày. Trong khi cả một ban giảng huấn có tới 13 vị Giáo sư danh giá của Harvard mà chỉ có một ngày để chia nhau thuyết trình cho thấy nhu yếu thiền tập đời sống tỉnh thức của đạo Bụt qua pháp môn của Làng Mai đã trở thành bộ môn quan trọng dưng nào của giới Khoa học, và Giáo dục của Viện đại học Harvard nói riêng và mọi ngành, mọi giới nói chung như chúng ta vừa mới chứng kiến Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn cho tập đoàn lãnh đạo cùng nhân viên của World Bank tại Tổng hành dinh Trung ương ở Washington DC đồng thời truyềnchân cho tất cả các chi nhánh có mặt trên 168 quốc gia.

Sự nghiệp trí tuệ, từ bi và hòa bình

Trước giờ Thiền Sư thuyết giảng, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Sức khỏe Cộng đồng của Đại Học Harvard đã long trọng giới thiệu Thiền sư Thích Nhất Hạnhtrước một cử tọa hàng ngàn người toàn là khoa bảng thượng thặng, những người con ưu tú của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Tiếp theo Giáo sư Julio Frenk - đại diện trường Đại Học Y Khoa Harvard và tổ chức Cambridge Health Alliance đã trân trọng trao tặng Thiền Sư tấm biển đồng Danh dự, công nhận Thiền Sư là một người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình (to the most Venerable Thich Nhat Hanh for your pioneering and tireless efforts in cultivating compassion, wisdom and peace). Tấm biển đồng được ký tên bởi hai vị: Giáo sư Caroline Shields Walker, Trưởng khoa Y (Faculty of Medicine), và Giáo sư Jack D. Burke, Trưởng khoa Tâm Lý Trị Liệu của trường Đại Học Y Harvard.

Biểu đồng danh dự Caroline và Jack D tặng.JPG

Đáplại nghĩa cử cao quý và chân thành của Ban tổ chức, Thiền sư Thích Nhất Hạnh khiêm cung phát biểu, xin trích:“Cảm ơn sự tin tưởng và thương yêu của quý vị. Chúng tôi, tăng thân Làng Mai, luôn luôn học hỏi, thực tập và phụng sự như một đoàn thể, một cộng đồng, một tăng thân, nên sự tin tưởng, niềm thương yêu và vinh dự này là dành cho tất cả mọi thành phần của tăng thân, trong đó có hàng trăm vị đang ngồi trong thính chúng.”

Giáo sư Julio Frenk trao tặng Thiền Sư bảng đồng Danh Dự

Cùng ngày, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Đại học Y tế Công cộng Harvard (Harvard School of Public Health) cũng đã trao tặng Thiền sư Thích Nhất Hạnh Chứng thư công nhận Thiền Sư là Nhà Lãnh Đạo Toàn Cầu cho Phong Trào vì Hòa Bình, Nhân Quyền và Sức Khỏe Cộng Đồng (Harvard School of Public Health hereby recognizes Zen Master Thich Nhat Hanh as a global leader for peace, human rights, and health). Chứng thư có nội dung như sau: “Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền Sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới."

Chứng thư do giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa của Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard trao tặng

Đặc biệt, không biết duyên cớ gì mà có một ký giả phải đổi đường bay tới hơn hàng chục ngàn cây số từ Hà Nội qua Washington DC, đến Boston, v.v... âm thầm đi theo bước chân của vị Thầy tâm linh cùng huyết thống để ghi chép, đưa tin chia sẻ tuệ giác của Thiền sư Thích Nhất Hạnh với đồng bào quê nhà.Phải chăng đây là một trong những ứng hiện của quy luật bù trừ trước những thiệt thòi của giống nòi Việt liên tục xảy ra từ trong chiến tranh cho chí hàng chục năm sau của hòa bình!

Và đây là một trong những bài đầu tiên của Ký giả H. A. S. đã gửi về cho Đài tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội và được phát thanh trên làn sóng cũng như đăng trên trang web của Đài. Chúng tôi xin chép lại như dưới đây.

Lê Nguyên tổng hợp.

Đi học "nghệ thuật chuyển hóa khổ đau"

gi

ữa lòng nước Mỹ

  • Thứ Hai, 16/09/2013 10:53

Radiovietnam- Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi nói chuyện có chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12/9 vừa qua.

34_Har1

Làm thế nào để chế ngự được những âu lo, sợ hãi? Bằng cách nào để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau? Con đường nào đưa ta đến cuộc sống thảnh thơi, an lạc, ngập tràn hạnh phúc và tình yêu thương? Chỉ có một con đường duy nhất, đó là nghệ thuật chánh niệm, là ý thức hơi thở, là nghệ thuật lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ ái ngữ…

Với thiền sư Thích Nhất Hạnh, đó chính là những phương pháp chánh niệm có công năng trị liệu đặc biệt, mang lại cho chúng ta tuệ giác và tình yêu thương đối với chính bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài mà thiền sư đã chia sẻ trong buổi nói chuyện về chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12 tháng 9 vừa qua...

Ý thức hơi thở - Hạnh phúc hiện ra ngay bây giờ và ở đây.

Buổi nói chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh do trường Đại học danh tiếng hàng đầu nước Mỹ Harvard tổ chức tại tiền sảnh của Khách sạn Boston Park Plaza đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó, phần lớn là giới trí thức, thượng lưu, doanh nhân, chính trị gia, trong đó, có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy.

1.200 vé đã bán hết vèo trong vòng 3 ngày với giá cao ngất ngưởng: 450 đô-la/vé đã chứng tỏ sức hút đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tâm linh nước Mỹ.

Dường như người Mỹ cũng đang phải đối diện với những khổ đau, những căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ của hạnh phúc, của an lạc.

Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi:“Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính tôi”.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng sân khấu. Khuôn mặt thầy bình thản, đôi mắt sáng, tinh anh, giọng thầy nhỏ nhẹ, đều đều như hơi thở. Thầy bắt đầu câu chuyện bằng việc theo dõi hơi thở.

Mọi người ở dưới ồ lên. “Tưởng thiền là điều gì khó khăn ghê gớm chứ theo dõi hơi thở của mình thì đơn giản quá”. Thầy mỉm cười. Cái cười độ lượng, nhân từ. “Ta thở vào và theo sát hơi thở xuống dưới bụng. Trong khi thở, ta nhủ thầm “Con đã về”. Rồi ta theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối trọn vẹn, thỏa mái, đồng thời nhủ thầm “Con đã tới”. Chỉ bằng một động thái đơn giản như thế, tâm ta lập tức sẽ trở về với thân, tiếp xúc với một sự thật màu nhiệm tuyệt vời là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi đó là hơi thở có ý thức, hơi thở chánh niệm.

Mọi người ở dưới chậm rãi thực hành theo. Thân thể thả lỏng, mắt từ từ nhắm lại. Chậm rãi theo dõi hơi thở. Thở vào: “con đã về”. Thở ra: “con đã tới”. Và ngay lập tức, dường như mọi người đã nhanh chóng thoát ra khỏi những lo toan, ồn áo huyên náo trong đầu, và bước vào một trạng thái thức tỉnh khác lạ. Khuôn mặt ai cũng trở nên thư thái. Có lẽ, họ đã hiểu, thế nào là giây phút hiện tại.

Thiền sư giảng giải:“Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những ưu sầu vì nuối tiếc quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai. Chúng ta cho rằng hạnh phúc chưa thể có trong hiện tại và chúng ta cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa mới thực sự có hạnh phúc. Đó chính là lý do khiến chúng ta khổ. Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang cần tìm đều có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta biết thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và chạm tay vào những màu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút này. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, chỉ có duy nhất giây phút mà ta có thể thực sự sống. Đó là giây phút hiện tại.

Trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt đã chỉ dạy cho chúng ta những bài tập cụ thể để tạo dựng niềm vui, hạnh phúc, an lạc. Đó là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn hạnh phúc đang có mặt với ta ở đây, ngay bây giờ.

Chẳng hạn như chúng ta tiếp xúc với hai mắt. “Tôi đang thở vào và ý thức về hai mắt của tôi. Tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt của tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ nảy sinh. Chỉ trong hai, ba giây là ta có thể nhận thấy rằng: đôi mắt của mình vẫn còn sáng. Một thiên đường của màu sắc, hình ảnh đang hiện ra trước mặt. Đối với những người bị khiếm thị, thiên đường ấy, chưa một lần họ nhìn thấy. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào thể thắp sáng ý thức rằng, mình đang có một đôi mắt sáng.

34_Har2

Buổi nói chuyện đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ.

Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi. Tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: trái tim mình đang đập bình thường trong khi biết bao người bị hở van tim, rối loạn động mạch vành. Họ có thể bị đột quỵ bất cứ lúc nào. Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn hạnh phúc đang có mặt trong ta, quanh ta.Đó là tập chánh niệm, nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại.

Nếu mình hoàn toàn có mặt trong giây phút này, mình có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang sống trong cõi niết bàn, tịnh độ.Và khi ta ở trong cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi thì ta đâu cần phải mệt nhọc chạy theo những danh tiếng, tiền tài, địa vị hay những dục lạc khác. Bình an, niềm vui, hạnh phúc có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người”.

Không có bùn, không có sen và nghệ thuật chuyển hóa khổ đau

Sảnh khách sạn đông nghẹt người mà im phăng phắc. Có thể nghe thấy tiếng thở chánh niệm đều đều của những người ngồi kề bên. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn thuyết pháp với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong.

Những lời giảng của ngài như những giọt sương trong vắt cứ nhẹ nhàng rơi, nhẹ nhàng thấm từng giọt, từng giọt vào những tâm hồn cằn khô vì lo toan, phiền muộn, sầu khổ. “Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diện và chìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem ti vi, uống rượu, hút thuốc phiện… hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.

Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau ấy. Chính vì điều này mà trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta.

Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả sự trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy.

Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ cho ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ. Sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì chúng ta sẽ hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó và thoát khỏi nó. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta.

Nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Làm thế nào để chế tác tình thương yêu?”. Tôi sẽ nói rằng:Chỉ có một cách duy nhất là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu không, ta không thể hiểu được những khổ đau của người khác và không thể thương yêu ai được”.

Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông.

Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình.Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn, nhờ đó, chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với người khác.

Ta có thể nói với người vợ đang khổ đau của ta rằng: “Em ơi! Anh biết em đã chịu nhiều đau khổ. Vậy mà, nhiều năm qua, anh đã làm những điều không phải khiến em khổ thêm bởi anh đã không hiểu được những khổ đau của chính anh và cả của em nữa. Hãy giúp anh em nhé! Hãy nói cho anh biết tất cả những khó khăn của em. Ạnh không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho em khổ thêm nữa”. Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Người thương của ta sẽ bớt khổ liền.

Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ nên họ cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt.

Hoa sen không thể mọc và tỏa hương nếu không có bùn. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng nương vào nhau. Chúng ta không thể thấy được hạnh phúc ngọt ngào nếu như chưa nếm trải vị cay đắng của khổ đau. Nếu ta chưa bao giờ bị đói, ta sẽ không biết trân quý món ăn. Nếu ta chưa bao giờ thấy chiến tranh, ta sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra”.

Hơn ngàn quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng. Khuôn mặt ai cũng ngời lên niềm xúc động, hạnh phúc, hoan hỉ. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh nở nụ cười rạng rỡ.

Ngài giơ đôi bàn tay lên vẫy vẫy – cách tán thưởng của ngài, trông đôi tay như hoa nở. Cả ngàn người bên dưới cũng giơ tay lên vẫy theo trông như một rừng hoa. Rồi ngài chậm rãi bước xuống, hướng dẫn mọi người đi bộ trong chánh niệm. Ngài đi trước, bước từng bước chậm rãi, thảnh thơi. Hàng ngàn người thong thả bước theo. Họ đi trong im lặng. Mỗi bước chân là một niệm cho an lạc, hòa bình, hạnh phúc, thương yêu.

34_Har3

Những bước đi thong dong, an nhiên như sen nở đưa dòng người chảy ra đường, hướng đến công viên Boston. Xe ô tô đang rầm rập chạy trên đường bỗng dừng lại. Những hành khách đang hối hả sải bước trên hè cũng dừng lại, nhường đường cho dòng người thiền hành trong im lặng chuyên chở biết bao năng lượng yên bình, hạnh phúc…

H.A.S

Nguồn: http://www.phusa.info/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2010(Xem: 4389)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4324)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6342)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5162)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7642)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6050)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12772)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
05/12/2008(Xem: 8414)
Hình ảnh Mừng Sinh Nhật Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Ngày 5-12-2008 tại Cao Hùng , Đài Loan tại Nhà Hàng 200 Món Đồ Chay Do Đạo Hữu Tony và quý Phật tử trong phái đoàn Hành Hương Chiêm Bái Phật Tích Ấn Độ tổ chức
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567