Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ban Ki Moon đương kim Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là người gốc Việt Nam

12/09/201310:07(Xem: 7661)
Ban Ki Moon đương kim Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là người gốc Việt Nam
Ban Ki Moon2


Nam Mô A Di Đà Phật 
Thư gửi Quý Thầy và Quý Đạo Hữu,

Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon (Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi
với Phan Huy Chú.

Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở  Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ
13 tại Bắc  Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý
Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng
xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat  để dò hỏi thêm việc nầy.
Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.

Trong thư đánh máy(có tính cách cá nhân) có ghi chú Ông Ban Ki Moon là Phan Cơ Minh, điều nầy không đúng, vì tôi xem chữ Hán của Ông Ban Ki
Moon viết và ghi chú là Phan Cơ Văn(chứ không phải Minh).

Xin gửi đến Qúy Vị để làm tài liệu.

Thích Như Điển


*****



Tài liệu tự tay ông Ban Ki Moon, cựu Tổng Trưởng Ngoại Giao Đại Hàn và đương kim Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc xác nhận gốc Việt Nam, cháu 7 đời
của sử gia Phan Huy Chú thời vua Minh Mạng và cùng họ hàng với cựu Thủ Tướng Phan Quang Đán thời VNCH.
Xem bút tự của ông Ban Ki Moon khi vào làm lễ ở nhà thờ họ Phan tại Xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai gần Hà nội ( địa điểm của Chùa Thầy nổi tiếng trong chuyến viếng thăm Việt Nam tháng 9-2015, attach dưới.

Hy-Văn


Ban Ki Moon

Tôi cảm thấy vinh hạnh viếng thăm và bày tỏ lòng thành kính của tôi đối với Cụ Tổ Phan Huy Chú và những Hương Linh khác của dòng tộc họ Phan.
Chân thành biết ơn quý Bác đã duy trì và gìn giữ Nhà Thờ Họ Phan này, bản thân tôi là một trong những người hậu duệ mang họ Phan, hiện đang giữ chức Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, tôi tự hứa với bản thân rằng tôi sẽ cố gắng làm theo lời dạy của Tổ Tiên Ông Bà.

Nay cung kính,

Ban Ki Moon
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc
Phan Cơ Văn

 



Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
Ban Ki Moon thăm nhà thờ họ Phan Huy



Ông Phan Huy Thanh, trưởng chi 2 dòng họ Phan Huy ở xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội đã xác nhận Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) Ban Ki Moon về thăm nhà thờ dòng họ mình vào tháng 5 qua.


Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon thăm nhà thờ họ Phan Huy - ảnh 1

Bút tích của ông Ban Ki Moon lưu lại tại nhà thờ Phan Huy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội - Ảnh: Lê Quân chụp lại


Trước đó, trên mạng xã hội lan truyền các hình ảnh và thông tin cho biết ông Ban Ki Moon có gốc gác là người Việt Nam, hậu duệ của dòng họ Phan Huy sản sinh ra những danh nhân nổi tiếng.

Chiều 31.10, Thanh Niên Online đã tiếp xúc với ông Phan Huy Thanh, đời thứ 16 của dòng họ Phan Huy. Ông Thanh trước đây là người trông coi nhà thờ họ Phan Huy tại thôn Thụy Khuê, xã Sài Sơn. Ông xác nhận thông tin Tổng thư ký LHQ Ban Ki Moon về thăm nhà thờ họ vào ngày 23.5.2015. Tuy nhiên, chuyện viếng thăm này mang tính chất cá nhân nên diễn ra khá thầm lặng.

Ông Thanh kể, 2 tuần trước ngày ông Ban Ki Moon về thăm, có người xuống nhà thờ, gặp ông Phan Huy Giám, ông từ trông coi nhà thờ hiện tại để thông báo về chuyến thăm này. Ngày 21.5.2015, các cơ quan công an, bảo vệ đặt vấn đề và tiến hành khảo sát địa thế nhà thờ.
Trong ngày 22.5, công tác bảo vệ, an ninh được thu xếp. Đến ngày 23.5, theo trí nhớ của ông Phan Huy Thanh, đoàn xe có khoảng 3-4 chiếc trong đó có một xe chở Tổng thư ký LHQ và phu nhân đến thăm nhà thờ.

“Ông Ban Ki Moon lưu lại đây khoảng 45 phút, từ 16 giờ đến 16 giờ 45 phút. Trong suốt thời gian diễn ra chuyến thăm viếng, ông chào hỏi, cảm ơn, thắp hương, sau đó có lưu lại bút tích”, ông Phan Huy Thanh cho biết.
Nội dung bút tích của ông Ban Ki Moon lưu lại tại nhà thờ họ Phan Huy được dịch ra tiếng Việt như sau: “Tôi rất xúc động khi viếng thăm và tỏ lòng thành kính sâu sắc trước ngôi nhà thờ Phan Huy Chú và các thành viên khác của dòng họ Phan. Cám ơn dòng họ đã giữ gìn và bảo quản ngôi nhà thờ này. Là một người con của dòng họ Phan, giờ đây giữ chức Tổng thư ký của LHQ, tôi tự hứa với bản thân sẽ cố gắng làm theo những lời dạy của tổ tiên”.
Tại nhà ông Thanh, hiện tại có rất nhiều ảnh chụp chuyến thăm viếng của ông Ban Ki Moon hồi tháng 5 qua. Trong số này, có ảnh ông Ban Ki Moon chụp cùng dòng họ Phan Huy. Một số bức ảnh khác còn có những người hàng xóm cùng đến chứng kiến. 


ban-ki-moon

Ông Ban Ki Moon trong chuyến thăm nhà thờ họ Phan Huy ban-ki-moonban-ki-moon

Ông Ban Ki Moon xem cuốn Lịch triều hiến chương loại chí tại nhà thờ họ Phan Huy


ban-ki-moonban-ki-moon

Ông Ban Ki Moon xem Thế thứ đồ dòng họ Phan Huy tại nhà thờ họban-ki-moon

Đại diện dòng họ Phan Huy tặng sách Lịch triều hiến chương loại chí cho ông Ban Ki Moon
ban-ki-moon

Ông Ban Ki Moon và phu nhân chụp ảnh cùng dòng họ Phan Huy tại nhà thờ 

ban-ki-moon

Ông Phan Huy Thanh đang lưu giữ những bức ảnh lưu niệm chuyến thăm nhà thờ họ Phan Huy của ông Ban Ki Moon


ban-ki-moon

Những bức ảnh của chuyến thăm nhà thờ họ Phan Huy của ông Ban Ki Moon


Lê Quân

 


Ban Ki Moon2

Ban Ki-moon (phát âm theo IPA: [pɑn gi mun] tiếng Việt : Phan Cơ Văn ) ; sinh 13 tháng 6 năm 1944 tại Chungju, Hàn Quốc) hiện là Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc thứ 8. Trước khi giữ chức Tổng thư ký, ông từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Hàn Quốc, một vị trí ông nắm từ tháng 1 năm 2004. Vào 13 tháng 10 năm 2006, ông được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc bầu làm Tổng Thư kí kế nhiệm ông Kofi Annan.[1]

Có Thông tin cho rằng ông là Hậu duệ của Danh Nhân Phan Huy Chú người Việt Nam [2]Ban nhận bằng cử nhân về ngành quan hệ quốc tế từ Đại học Quốc gia Seoul vào năm 1970 và bằng Thạc sỹ Quản lý công (Master of Public Administration) từ Trường Đào tạo Nhà nước John F. Kennedy tại Đại học Harvard vào năm 1985.

Ban đã lập gia đình và có một con trai và hai con gái.Thêm vào tiếng Hàn là tiếng mẹ đẻ, Ban thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp.

Là một học sinh trung học trong những năm đầu của thập kỉ 1960, Ban gặp Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy ở Washington D.C. sau khi thắng một cuộc thi tiếng Anh tổ chức bởi Hội chữ thập đỏ Mỹ, sau đó ông quyết tâm trở thành một nhà ngoại giao.

Sự nghiệp

Ban Ki-moon với Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Paul Wolfowitz
Vị trí đầu tiên ở nước ngoài của Ban sau khi tham gia ngành ngoại giao Hàn Quốc là đến New Delhi. Sau khi làm việc trong Vụ Liên Hiệp Quốc tại Bộ ngoại giao, ông phục vụ như là Bí thư thứ nhất tại Phái đoàn quan sát thường trực của Hàn Quốc tại Liên hiệp quốc ở New York City. Theo sau đó ông nắm chức Vụ trưởng Vụ Liên hiệp quốc. Ông đã nhận nhiệm vụ hai lần tại tòa Đại sứ Hàn Quốc ở Washington D.C.. Giữa hai nhiệm vụ này ông là Tổng Giám đốc cho Vụ quan hệ Hoa Kỳ trong năm 1990-1992. Ông được thăng lên chức Thứ trưởng về Hoạch định chính sách và các Tổ chức Quốc tế năm 1995. Sau đó ông được bổ nhiệm Cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống vào năm 1996, và nhận chức Thứ trưởng vào năm 2000. Vị trí gần đây nhất của ông là Cố vấn về các vấn đề ngoại giao cho Tổng thống Roh Moo-hyun.

Trong khi là Đại sứ ở Áo, Ban được bầu là Chủ tịch của Ủy ban trù bị cho Tổ chức Hiệp định cấm thử vũ khí hạt nhân hoàn toàn (Comprehensive Nuclear-Test-Ban Treaty Organization, CTBTO PrepCom) trong năm 1999. Trong quá trình Hàn Quốc chủ tọa phiên họp thứ 56 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc vào năm 2001, ông là chủ tịch Đoàn chủ tịch Hội đồng.

Ban đã tích cực tham gia các vấn đề liên quan đến quan hện giữa hai miền Triều Tiên. Vào năm 1992, ông là Phó chủ tịch của Ủy ban hỗn hợp về kiểm soát hạt nhân Nam Bắc Triều Tiên, theo sau sự kí kết của Nam và Bắc Triều Tiên về Bản Thông cáo chung của việc Phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên. Vào tháng 9 năm 2005, với nhiệm vụ Bộ trưởng ngoại giao, ông giữ vai trò lãnh đạo trong những cố gắng về ngoại giao để kí kết bản thỏa thuận chung giải quyết các vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên tại Vòng thứ nhất Đàm phán 6 bên tổ chức ở Bắc Kinh.

Ứng cử viên Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
Vào tháng 2 năm 2006, Ban tuyên bố ứng cử thay thế Kofi Annan làm Tổng thư kí Liên hiệp quốc vào cuối năm 2006. Đây là lần đầu tiên một người Hàn Quốc tranh cử chức Tổng thư kí.[6]

Ban dẫn đầu trong bốn lần bầu cử sơ khởi do Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc tổ chức vào 24 tháng 7, 14 tháng 9, 28 tháng 9 và 2 tháng 10.

Vào lần bỏ phiếu không chính thức ngày 2 tháng 10, Ban nhận 14 phiếu thuận và 1 "không ý kiến" từ 15 thành viên Hội đồng bảo an, đoàn Nhật bản là quốc gia duy nhất không đồng ý hoàn toàn. Quan trọng hơn, Ban là người duy nhất thoát một phiếu chống, trong khi mỗi trong 5 người còn lại đều nhận ít nhất là một phiếu chống từ 5 năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an — Cộng hòa nhân nhân Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ.[7] Sau khi bỏ phiếu, Shashi Tharoor, người thứ hai, rút lui[8] và Đại diện thường trực của Trung Quốc tại LHQ nói với các phóng viên là "khá rõ từ kết quả bỏ phiếu hôm nay là Bộ trưởng Ban Ki-moon là ứng cử viên mà Hội đồng bảo an sẽ đề nghị lên Đại Hội đồng (General Assembly)."[9]

Wikinews-logo.svg
Wikinews có các tin tức ngoại ngữ liên quan đến bài:
Ban Ki-Moon elected as next UN Secretary General
Vào 9 tháng 10, Hội đồng Bảo an chính thức chọn Ban như là người được đề cử. Vào 13 tháng 10, Tổng Hội đồng gồm 192 thành viên đã thông qua một nghị quyết, bằng biểu quyết, bổ nhiệm Ban làm Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc.

Phan Huy Chú



Phan huy chu 2Phan Huy Chú (Chữ Hán: 潘輝注; 1782 – 1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong; là quan triều nhà Nguyễn, và là nhà thơ, nhà thư tịch lớn[1], nhà bác học Việt Nam[2].Xuất thân trong "dòng họ Phan Huy" có tiếng về văn học, thuở nhỏ, Phan Huy Chú có tên là Hạo, sau vì kiêng quốc húy đổi là Chú. Ông là con trai thứ ba của danh thần Phan Huy Ích và bà Ngô Thị Thực (thuộc "dòng họ Ngô Thì", cũng có tiếng về văn học. Bà là con gái Ngô Thì Sĩ, em gái của Ngô Thì Nhậm, bà mất khi Phan Huy Chú mới 10 tuổi).

Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Thụy Khuê, thuộc huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (trước thuộc tỉnh Sơn Tây, sau thuộc Hà Tây; và nay là thôn Thuỵ Khuê, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) [3].

Quê gốc của ông là thôn Chi Bông, xã Thu Hoạch (đầu thời Nguyễn thuộc huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quan, trấn Nghệ An; nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1787, một người trong dòng họ Phan Huy (và là ông nội của Phan Huy Chú) là Phan Huy Cận (sau đổi tên là Áng), làm quan lớn dưới triều Lê-Trịnh, sau khi từ giã chốn quan trường đã đến ở làng Thụy Khuê, và trở thành "ông tổ đầu tiên của của chi phái Phan Huy" ở đây[4].

Vốn thông minh, được cha mẹ nuôi dạy chu đáo, lại từng được Ngô Thì Nhậm (cậu ruột) rèn dạy từ lúc 6 tuổi [5]; nhưng cả hai lần thi Hương (Đinh Mão, 1807; và Kỷ Mão, 1819), ông chỉ đỗ Tú tài (nên tục gọi ông là "Kép Thầy", vì ở làng Thầy và đỗ hai lần). Kể từ đó, ông thôi việc thi cữ, chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và trước tác [2].

Tuy không đỗ cao, nhưng ông vẫn nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác. Vì vậy, năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng cho triệu ông vào kinh đô, cử giữ chức Biên tu trường Quốc tử giám ở Huế. Năm này, ông dâng lên vua bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí do ông biên soạn (khởi soạn khi còn đi học, đến năm 1809 thì cơ bản hoàn thành)[2], và được khen thưởng.

Năm Ất Dậu (1825), ông được sung làm Phó sứ sang Trung Quốc. Khi về, được làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, rồi thăng Hiệp Trấn Quảng Nam (1829). Ít lâu sau, ông bị giáng vì phạm lỗi, được điều động về Huế giữ chức Thị độc ở Viện hàn lâm.

Năm Tân Mão (1831), lại sung Phan Huy Chú làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Nhưng khi về nước, thì cả đoàn sứ bộ đều bị giáng chức (ông bị cách chức), vì tội "lộng quyền"[6].

Năm sau (Nhâm Thìn, 1832), cho ông làm phục dịch trong phái bộ sang Batavia (Giang Lưu Ba, Indonesia) để lập công chuộc tội.

Trở về (Giáp Ngọ, 1834), ông được bổ làm Tư vụ bộ Công. Sau đó, vì chán chốn quan trường, ông cáo bệnh xin về hưu ở làng Thanh Mai, thuộc huyện Tiên Phong (nay là xã Vũ Thắng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội). Ở đây, ông làm nghề dạy học và soạn sách cho đến khi mất.

Phan Huy Chú mất ngày 27 tháng 4 năm Canh Tý (28 tháng 5 năm 1840) lúc 58 tuổi[7].

Phần mộ của ông hiện ở tại thôn Mai Trai, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, (trước thuộc Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Các tác phẩm chính[sửa | sửa mã nguồn]
Lịch triều hiến chương loại chí[8]
Hoàng Việt dư địa chí
Mai Phong du Tây thành dã lục
Hoa thiều ngâm lục (tập thơ đi sứ sang Trung Quốc)
Hoa trình tục ngâm
Hải trình chí lược, hay còn gọi là Dương trình ký kiến (ghi chép những điều trông thấy lúc đi Batavia)
Lịch đại điển yếu thông luận, v.v...
Nhìn chung, Phan Huy Chú nổi tiếng là nhà nghiên cứu, biên khảo, hơn là nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm có giá trị nhất của ông là bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Đây có thể xem là "bộ bách khoa toàn thư" đầu tiên của Việt Nam[9]. Kế tiếp, đáng kể nữa là bộ Hoàng Việt dư địa chí, ghi chép về địa lý Việt Nam[9].

Thông tin thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Vợ Phan Huy Chú là bà Nguyễn Thị Vũ, con gái Tiến sĩ Nguyễn Thế Lịch (tức Nguyễn Gia Phan), người thôn Yên Lũng, Từ Liêm (nay thuộc Hoài Đức, Hà Nội). Ông giỏi nghề thuốc, và từng làm quan trải đến chức Thượng thư bộ Hộ dưới triều Tây Sơn. Năm 1803, ông bị vua Gia Long sai đánh đòn tại Văn Miếu cùng với Ngô Thì Nhậm[10].




Phan Huy Chuphan huy chu 3Phan Huy Chu 1
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2012(Xem: 7712)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18618)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5283)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7319)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4389)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17216)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8197)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5451)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5104)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567