Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Chư Tăng thời Lý mặc y "Tiểu thừa"

21/09/201214:40(Xem: 7188)
06. Chư Tăng thời Lý mặc y "Tiểu thừa"
CHƯ TĂNG THỜI LÝ MẶC Y "TIỂU THỪA"
Thích Thanh Thắng

Nhân dịp Đại lễ tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, một số website có đăng tin về việc phát hiện “nếp áo Tiểu thừa” trên tượng vua Trần Nhân Tông tại tháp tổ Huệ Quang của tác giả Trần Khánh Linh. Tôi quan tâm đến những chi tiết đã được trình bày sau đây: 

“Tượng vua Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang quả là công trình tuyệt mĩ về mặt mĩ thuật, nhưng đặc biệt hơn cả là pho tượng đó tồn tại trong đó những bí ẩn mà mãi cho đến ngày nay chúng ta mới đặt câu hỏi và bắt đầu trên con đường khám phá: Đó chính là nếp áo tiểu thừa mà những người thợ chế tác cùng thời khoác cho bức tượng.

Như chúng ta đã biết rõ ràng thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại Thừa vậy nếp áo Tiểu Thừa của đệ nhất tổ một dòng thiền Đại thừa mang ý nghĩa gì?

Tìm lại một chút lịch sử các pho tượng cổ vua Nhân Tông, ngoài pho tượng đặt trong tháp Huệ Quang ra còn có một số pho tượng khác vua cũng mặc áo tiểu thừa: hệ thống ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ ở Côn Sơn; ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ trong chùa Đồng cũ được xây dựng đầu thế kỷ 20… còn lại đa phần các pho tượng khác vua vẫn mặc áo Đại Thừa.

Giở lại một số sách sử chép về cuộc đời bắt đầu khi vua xuất gia tu hành đến đắc đạo thành Phật ta thấy có một số sự kiện sư sau:

Sách Thánh Đăng Ngữ Lục chép: “Năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ 7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà”

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Tháng 8 (năm kỷ hợi) Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”

Sách Thánh Đăng ngữ lục chép lại: Khi mất vua Nhân tông được tôn hiệu Đại thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Huệ Điều Ngự Tổ Phật.

Như vậy có một điều khẳng định là vua Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật”(Phát hiện nếp áo tiểu thừa trên tượng Trần Nhân Tông - Vietnamnet).

***

Có thể nói đoạn trích trên đáng chú ý với 2 điểm mà tôi đã in đậm. Với 2 điểm đáng chú ý này, tôi vẫn phân vân và chưa cảm thấy được thuyết phục. Vì vậy, tôi xin gợi ra thêm một số suy nghĩ có căn cứ để chúng ta tham khảo thêm về “nếp áo Tiểu thừa” trên tượng vua Trần Nhân Tông, nhằm đến những giả thiết (hay kết luận) về sau thuyết phục hơn.

- Với chi tiết đáng chú ý thứ nhất: “ngoài pho tượng đặt trong tháp Huệ Quang ra còn có một số pho tượng khác vua cũng mặc áo tiểu thừa: hệ thống ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ ở Côn Sơn; ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ trong chùa Đồng cũ được xây dựng đầu thế kỷ 20… còn lại đa phần các pho tượng khác vua vẫn mặc áo Đại Thừa”, chúng ta cần phải xác định cụ thể niên đại của những pho tượng có “nếp áo Tiểu thừa” và cả Đại thừa nữa. 

Vì rằng, khi tạc tượng Phật, người đời sau cũng có thể sao chép lại mẫu tượng trước đó. Nếu không xác định được những niên đại cùng thời hoặc sớm hơn pho tượng trong tháp tổ Huệ Quang thì sẽ thiếu thuyết phục. Biết đâu, cùng thời, khi Trần Nhân Tông viên tịch đã tồn tại cả hai mẫu tượng với 2 nếp áo (Tiểu thừa, Đại thừa) khác nhau?

- Với chi tiết đáng chú ý thứ hai: “có một điều khẳng định là vua Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật”, chúng ta quan tâm đến hạnh tu đầu đà. 

Đầu đà: phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên.

Vậy hạnh tu đầu đà có phải chỉ dành riêng cho những người theo truyền thống Tiểu thừa hay không? Ở Việt Nam, sự phân biệt này là không rõ ràng và không cần thiết, vì vốn dĩ ngay từ đầu đã có sự dung hội của nhiều pháp môn tu khác nhau mà không hề có sự phân biệt.

Không chỉ có vua Trần Nhân Tông mới tu hạnh đầu đà. Trong hành trạng của thiền sư Cứu Chỉ (Đàm Cứu Chỉ) đời thứ 7, dòng Vô ngôn thông (Đại thừa) thời Lý, có chi tiết như sau: 

Sư thấu triệt ý chỉ. Nhân đó Trưởng lão đặt tên Sư là Cứu Chỉ. Sau đó, Sư lên chùa Quang Minh, núi Tiên Du (Bắc Ninh) ở luôn trong đó chuyên tu hạnh đầu đà, trọn năm không bước chân xuống núi. Tiếng đồn tới kinh đô, vua Lý Thái Tông cho mời mấy lần nhưng Sư không đến nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi…”(Thiền sư Việt Nam, Thích Thanh Từ).

Đối chiếu thơ văn, thi kệ, quan điểm tư tưởng của thiền sư Cứu Chỉ và Trần Nhân Tông, ngoài chi tiết tu hạnh đầu đà, nổi bật vẫn là tư tưởng Đại thừa.Vậy có phải chỉ có người theo Tiểu thừa mới tu hạnh đầu đà, và chỉ tu hạnh đầu đà mới mặc áo Tiểu thừa?

Vì không có một bản văn chính thức nào nói đến y phục của tăng sĩ thời Trần, nên chúng ta mới phải diễn giải các chi tiết như vậy. Trần Nhân Tông có thể nào mặc y khác biệt với chư Tăng thời đó, đặc biệt là đối với những tăng sĩ cùng một môn phái do ông sáng lập? 

Chúng ta có thể so sánh với nếp áo trên pho tượng Pháp Loa và Huyền Quang xem họ có mang “nếp áo Tiểu thừa” không, bởi họ là những người được truyền thừa trực tiếp từ Trần Nhân Tông? 

Đó là những giả thiết cần phải được đặt ra. Tuy nhiên, có một chi tiết đáng chú ý để chúng ta có thể liên hệ tới “nếp áo Tiểu thừa” này của vua Trần Nhân Tông. 

Trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của Nguyễn Công Bật thời Lý có đoạn đã miêu tả về ngày Lễ tắm Phật như sau: “… Để mồng một hàng tháng, để mùa Xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, cùng hở vai tiến thoái nhịp nhàng…”.

Vậy việc năm chúng xuất gia (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa, Sa di, Sa di ni) mặc y phục hở vai thời Lý có liên quan và tiếp nối gì đến y phục chung và phổ biến của tăng sĩ thời Trần, cũng như nếp áo trên tượng Trần Nhân Tông?

Và nếu cách mặc hở vai của tăng sĩ là một hình thức phổ biến thời Lý, được tiếp nối với các hình thức ăn mặc khác của tăng sĩ thời Trần thì việc tạc tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông có nếp áo hở vai có phải là điều quá ngạc nhiên?

Phải chăng với nếp áo trên bức tượng Trần Nhân Tông trong tháp Huệ Quang, chúng ta nên gọi là “nếp áo hở vai” hơn là gọi “nếp áo Tiểu thừa”?

Trên đây chỉ là một chi tiết phần nào chỉ ra cách ăn mặc của tăng sĩ thời Lý và một số giả thiết nhằm gợi mở rõ hơn cho “nếp áo hở vai” trên tượng Trần Nhân Tông. Chúng ta hy vọng còn có những phát hiện mới hơn nữa từ trong các thư tịch cổ, bia đá, chuông đồng… Bởi đó là những tư liệu mà chúng ta phải giữ gìn, tìm hiểu, vì nó liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hóa của Phật giáo nước ta. 

Chỉ riêng văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh đã cho ta thấy nguồn gốc của Quốc lễ Phật đản, của nghệ thuật làm người rối, phong tục múa rối nước, và lễ hội đèn Quảng Chiếu. 

Gần đây, chúng ta đang tìm hiểu để phục dựng lễ hội đèn Quảng Chiếu trong dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Chắc chắn những miêu tả sinh động và chi tiết trong văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh về lễ hội là những cơ sở đáng tin cậy để chúng ta quan tâm, tham khảo.

Thích Thanh Thắng 
(phattuvietnam.net)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6133)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
09/04/2013(Xem: 8051)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 6604)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6055)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 6272)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 7030)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 7081)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 9165)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 5803)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 10404)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567