Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Bồ tát Quảng Đức sống mãi với lịch sử PGVN

06/06/201214:19(Xem: 8477)
06. Bồ tát Quảng Đức sống mãi với lịch sử PGVN

BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
SỐNG MÃI VỚI LỊCH SỬ PGVN

Lê Cung

Hòa thượng (HT) Thích Quảng Đức tên đời là Lâm Văn Túc sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Lên bảy tuổi Lâm Văn Túc được cậu ruột đem về nuôi và đổi tên là Ngyễn Văn Khiết, Lâm Văn Túc xuất gia với thiền sư Hoằng Thâm, thọ đạt giới năm hai mươi tuổi và bắt đầu tu khổ hạnh ở núi Ninh Hòa. Trong năm năm, Ngài tu Thiền và đi du hóa, theo hạnh đầu đà, chỉ giữ bên mình một y, một bát. Sau đó, Ngài về định cư tu tập tại chùa Thiên Ân ở Ninh Hòa gần thành phố Nha Trang. Năm 1932, Ngài được chi hội Ninh Hòa của Hội An Nam Phật Học mời làm chứng ming đạo sư. Ít lâu sau đó, Ngài lại lên đường hành hóa ở các tỉnh miền Nam Trung Bộ, góp phần mình vào việc kiến tạo và trùng tu 14 ngôi chùa ở đây. Năm 1943, Ngài vào hành hoá các tỉnh miền Nam: Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường, và Hà Tiên. Tiếp theo, Ngài lên Kim Biên (Campuchia) vừa hành đạo vừa học hỏi thêm các kinh điển Pàli. Trong thời gian hành đạo ở miền Nam và ở Campuchia Ngài đã góp công tạo lập hoặc trùng tu cả thảy là 17 ngôi chùa. 

Năm 1953, Giáo hội Tăng già Nam Việt thỉnh Ngài làm Trưởng ban Nghi lễ, và hội Phật học Nam Việt mời Ngài làm trụ trì chùa Phước Hòa. Ngôi chùa Ngài thường trú lâu nhất là chùa Long Vĩnh, Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh, nên tín đồ thường gọi Ngài là HT Long Vĩnh. Ngôi chùa cuối cùng mà Ngài trú trì là chùa Quan Thế Âm (Gia Định). Ngay khi phong trào PG miền Nam năm 1963 phát khởi, Ngài đã có ý nguyện hiến mình để bảo vệ Đạo pháp trước chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Theo HT Thích Tịnh Khiết "bảy ngày sau khi "Phong trào vận động cho 5 nguyện vọng của Phật giáo" phát khởi, HT Thích Quảng Đức là một trong ba vị Tăng và Ni đã tình nguyện hiến thân". Đến ngày 27-5-1963, HT Thích Quảng Đức gởi cho giới lãnh đạo Phật giáo một bức tâm thư xin tự thiêu để bảo vệ Phật giáo. Tuy nhiên giới lãnh đạo Phật giáo hy vọng rằng những cuộc tuyệt thực của Tăng Ni trên toàn miền Nam sẽ tạo được một áp lực mạnh, buộc chính quyền Ngô Đình Diệm phải giải quyết những nguyện vọng đã được đưa ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963. Do đó, ý nguyện tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không được giới lãnh đạo PG chấp nhận. 

Tới ngày 9-6-1963, sau những lần thảo luận giữa Ủy ban Liên phái Bảo vệ PG và Ủy ban Liên bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng vẫn không đem lại một kết quả nào, trái lại , chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn tăng gia các hoạt động đàn áp, khủng bố Tăng Ni Phật tử, Trong tình hình đó, "nếu kéo quá dài các cuộc rước linh và tuyệt thực một cách nhàm chán thì phong trào đấu tranh tự nó cũng sẽ bị xẹp vì thiếu những hình thức mới mẻ, gây xúc động mạnh nuôi dưỡng", giới lãnh đạo PG bị bắt buộc phải chấp nhận ý nguyện xin tự thiêu của HT Thích Quảng Đức. 

Ngày 11-6-1963, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng (Sài Gòn), HT Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn Tăng Ni Phật tử cùng những quan sát viên quốc tế. Lực lượng Diệm được điều động đến để hòng phá tan cuộc tự thiêu, nhưng bị thất bại vì Tăng Ni Phật tử đã kiên quyết bảo vệ bằng cách vây quanh nhiều vòng. Có người nằm lăn trước xe cứu hỏa, xe cảnh sát không cho can thiệp. Chiều ngày 11-6-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh phong tỏa các chùa, nhất là chùa Xá Lợi, nơi đang đặt thi hài của HT Thích Quảng Đức, khắp các nẻo đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát được huy động để ngăn chặn làn sóng người đang đổ xô về đây. Buổi tối cùng ngày, qua đài truyền thanh, Ngô Đình Diệm đọc thông điệp lên án vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức là do "một số người bị đầu độc gây án mạng" và "kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế". Lời lẽ trong thông điệp một lần nữa bộc lộ bản chất độc tài của Diệm, khi y tuyên bố: "Sau lưng PG trong nước còn có Hiến pháp nghĩa là còn có tôi". Mặc dầu vậy, những con đường dẫn về chùa Xá Lợi, cảnh sát đã bị làn sóng người tràn ngập. 

Cuộc hy sinh phi thường và dũng cảm của HT Thích Quảng Đức, hình ảnh Ngài ngồi yên như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn sóng điện cực mạnh làm sôi nổi dư luận trong cả nước và trên thế giới. Ảnh của HT Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục. 

Thật vậy, ở trong nước, "Đây là một gương Đại hùng, Đại lực. Tinh tiến bất chuyển mà chúng ta thường nghe nói, nhưng đến nay mới có một số ít được chứng kiến. Phối hợp với những hy sinh khác của Phật tử khắp nơi trong nước, cái chết vô úy của HT Thích Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng". Cái chết của HT Thích Quảng Đức, như ý nguyện của Ngài là "làm đèn soi sáng nẻo vô minh", nhằm "cảnh tỉnh ai còn ngốc" đã tiếp thêm một sức mạnh lạ thường cho hàng triệu người trên toàn miền Nam, bất chấp mọi bạo lực, hiên ngang xuống đường đấu tranh chống lại chế độ bạo tàn Ngô Đình Diệm. Về phía tín đồ Thiên Chúa giáo, ngay từ đầu của cuộc đấu tranh, Linh mục Lê Quang Oánh cùng với 9 linh mục và tín đồ khác đã gởi cho giới lãnh đạo Phật giáo "Huyết lệ thư", lên án chế độ Diệm và bày tỏ sự ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo. Sau cái chết của HT Thích Quảng Đức, ngày 16-6-1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, cai quản giáo khu Sài Gòn đã chính thức lên tiếng trong một bức thư luân lưu. Bức thư xác định rõ: "Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam hoàn toàn đứng ngoài cuộc tranh chấp mặc dù vai trò chủ động gây ra cuộc tranh chấp là tín đồ Thiên Chúa giáo". Trong bức thư thứ hai gởi cho các hàng giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo trước khi lên đường đi La Mã tham dự cộng đồng Vatican II, Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh: "Giáo hội không những không gây nên biến cố mà còn đau đớn vì những tai họa đã và còn là ác quá của biến cố". 

Đối với thế giới, sự hy sinh của HT Thích Quảng Đức là "hành động tiêu biểu vĩ đại. Nó không chỉ chống lại Diệm, để chỉ sự hiện hữu của Phật giáo và được để ý tới, mà nó còn có ý nghĩa chống lại sự bất công, bất chính của toàn thế giới... Với một hành động lặng thinh, không nói một lời, một vị HT Việt Nam, đã nêu ra một tấm gương sáng rùng rợn, một kháng nghị cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi sự xấu xa đê hèn của loài quỷ sứ đang còn tồn tại trong thế giới này". "Đây là một trạng thái mới lạ và huyền ảo của bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt cái uy quyền tối thượng của tinh thần. Không một bạo lực nào có thể làm suy giảm tâm hồn, sức chịu đựng của một cá thể đối với mọi ức chế đàn áp chính trị độc tài thật vô biên". 

Tờ New York Herald Tribune (21-7-1963) viết: "HT Thích Quảng Đức, một tu sĩ đã biến áo cà sa vàng của mình thành một giàn hỏa thiêu... Tổng thống Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam đang làm một việc rất hay là ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ ông". "Tai Hoa Thịnh Đốn ngày 12-6-1963, nhân dân Mỹ đã đón nghe một cách xúc động tin cuộc biểu tình tranh đấu của giới Phật tử miền Nam". Vụ tự thiêu đã gây nên một chấn động mạnh, đặc biệt làm cho dư luận Mỹ quay sang chống Ngô Đình Diệm và gia đình y. Trên thực tế cái chết của HT Thích Quảng Đức đã làm rung chuyển chế độ Diệm. Nó "có một tầm quan trọng rất lớn và đã chuyển mạnh cuộc vận động của Phật giáo sang một thế giới mới, trên cả hai bình diện quốc nội và quốc tế...Nó thúc đẩy cuộc vận động cho Phật giáo ở Việt Nam cũng như ở quốc tế tiến mạnh tiến nhanh"... 

...Robert Topmiller (Mỹ) viết: "Ngày nay, "ngọn đuốc sống" của ngài vẫn được nhiều người Mỹ quan tâm và nghiên cứu. Đó là một đề tài bất tận đối với giới khoa học phương Tây". Mục sư Donalds Harrington (Mỹ) đã xem cái chết của HT Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giêsu, Michel Servetus, Jeanne d'Arc. Ông cho rằng hành động mỗ bụng của người Nhật cũng không thể nào so sánh nổi với sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức, tuy rằng gan dạ như nhau, bởi vì "sự tự thiêu của Ngài đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang chìm đắm trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh. Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của Phật giáo và dân tộc". 

PTS LÊ CUNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 6560)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4570)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4512)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4445)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 10366)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
18/03/2013(Xem: 5186)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6003)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 6550)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 7848)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 9046)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567