Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Tưởng niệm GS. Trần Phương Lan: Học hành chi lạ rứa

28/03/201113:09(Xem: 5386)
4. Tưởng niệm GS. Trần Phương Lan: Học hành chi lạ rứa
 
image

Vào những giờ học Anh văn Phật pháp tại Học viện Phật giáo Việt Nam, TP.HCM từ khóa I cho đến khóa V, nếu ai tình cờ đi ngang qua lớp học chắc sẽ nghe được giọng đọc đậm chất Huế vang lên và tiếp theo là âm vang đồng thanh của cả lớp. Đó là những âm thanh thực hành quen thuộc trong giờ học Anh văn Phật pháp của Giáo sư Phương Lan và những học trò của Cô.

Là một nhà giáo mẫu mực và nổi tiếng với sự nghiêm khắc nhưng lại rất có tâm và có tình, Cô đã để lại trong lòng các thế hệ học trò của mình những kỷ niệm thật ấn tượng và khó quên.

Hai tiếng gọi ‘Madam’ Phương Lan dường như đã trở nên quen thuộc với anh em tăng sinh chúng tôi khi còn ngồi trên ghế Học viện và cũng quen thuộc ngay cả với Cô giáo nữa. Nó là biệt hiệu mà chúng tôi đặt để tặng cho Cô bởi Cô vừa là người dạy tiếng Anh, vừa là người đặc biệt làm chúng tôi không thể nào quên vì sự nghiêm khắc và sự tận tâm của Cô. Mỗi khi nghe gọi hai tiếng ‘Madam’ cô mỉm cười từ ái bởi Cô cũng hiểu những người học trò của mình cũng có chút tinh nghịch khi phải đối mặt với môn học ‘khó nuốt’ mà Cô đảm trách. Và rồi, hai tiếng ‘Madam’ trở thành thuật ngữ riêng, thân mật cho tình Cô trò chúng tôi.

Có lẽ, ai cũng biết rằng học thêm một ngoại ngữ nhất là ngoại ngữ chuyên môn là một sự nỗ lực rất lớn bởi nó đòi hỏi khả năng sử dụng trí nhớ rất cao. Không nhớ từ vựng, ngữ pháp, cấu trúc câu thì không tài nào có thể diễn đạt ý tưởng của mình được. Hơn nữa thuật ngữ chuyên môn, ngay cả ngôn ngữ mẹ đẻ cũng vất vả lắm mới có thể nhớ hết, huống gì là ngoại ngữ. Tuy nhiên, hiểu được tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ chuyên môn và ý nguyện phụng sự Phật pháp mai sau, Cô trò không còn cách nào khác hơn là mỗi bên đều làm tốt công việc của mình. Cô đã làm rất tốt vai trò khi chính Cô đã biên soạn bộ giáo trình giảng dạy Anh văn Phật pháp rất công phu và chuẩn cho những sinh viên của Cô và cho cả những ai có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu Phật pháp bằng Anh ngữ. Đó là một nỗ lực rất lớn và cũng là tấm lòng tận tụy, mong mỏi những người học trò của mình học tốt hơn khi có bộ giáo án này. Còn phần chúng tôi, thật là khó nói quá!
post3_477929687
Cứ trước mỗi buổi học, Cô đều căn dặn thật kỹ mỗi chúng tôi chuẩn bị bài vở trước khi đến lớp. Cô mở sách ra và chỉ từng phần cụ thể để không bị chúng tôi ‘chối cãi’. Và trước giờ học khá sớm, khi những sinh viên chúng tôi chưa đến hay đang đến thì Cô đã đón xe đến trước và ngồi chờ sẵn ở văn phòng rồi. Cô làm việc rất đúng giờ khi vào cũng như khi ra lớp dù cho có những lúc chúng tôi rất mong muốn về sớm. Đó là một trong những tính cách chuẩn mực của Cô.
Trong giờ học, Cô hướng dẫn phát âm chính xác từng chữ, từng câu và sẵn lòng gọi bất cứ ai trong lớp lập lại điều Cô dạy. Cây thước kẻ thon thon, nho nhỏ mà Cô thường dùng để gõ vào bàn làm hiệu lệnh sinh viên đọc theo, có lẽ là vật kỷ niệm một đời dạy học của Cô. Những lúc Cô kiểm tra bài hay trắc nghiệm khả năng học hành của học trò, Cô cười thật tươi như mãn nguyện khi thấy các trò của mình có nhiều tiến bộ hay chăm chỉ học hành; nhưng Cô lại buồn khi thấy các trò chưa đạt yêu cầu hay nói đúng hơn là còn giãi đãi. Những lúc buồn bực vì các trò ‘hơi bị lười biếng’, Cô thường nói những câu khuyên răn vừa như trách cứ nhưng lại thấy đáng thương làm sao! Một trong những câu nói đậm chất Huế của Cô làm cho tất cả chúng tôi đều nhớ mãi là ‘học hành chi lạ rứa’.
p-lan-10
Ở trong một căn nhà nằm trong một con hẻm nhỏ yên tĩnh ở quận Gò vấp, Cô sống một mình với niềm vui phiên dịch kinh điển và hành trì Phật pháp. Cách đây vài năm, có dịp chúng tôi được ghé thăm và được Cô đón tiếp rất tận tình. Cô đưa chúng tôi tham quan ngôi nhà của mình với những tài sản quý giá là các bộ từ điển, những quyển sách tiếng Anh và các công trình phiên dịch của Cô. Ngoài ra, Cô cũng giới thiệu thêm tài sản tự nhiên của Cô gồm các loại bonsai và hoa được Cô chăm sóc trên sân thượng. Khi đàm đạo với chúng tôi, Cô luôn bày tỏ những ưu tư về thế hệ kế thừa làm công tác phiên dịch, nhất là chuyên ngành tiếng Anh Phật pháp. Cô trao đổi những kinh nghiệm quý báu cho chúng tôi về việc nghiên cứu và phiên dịch kinh điển. Với Cô, để cho việc nghiên cứu có kết quả đáng tin cậy, phải tìm đọc và học những bộ từ điển, những bộ sách chuẩn và đáng tín cậy. Thật ra, đó là điều không mới lạ nhưng ở môi trường Việt Nam, lời khuyên ấy thật có ý nghĩa với chúng tôi. Trong nụ cười rạng rỡ, Cô cũng không quên ‘khoe’ với chúng tôi về những thầy cô tăng ni đang du học các nước như Miến Điện, ấn Độ…với tâm trạng thật hoan hỉ. Cô nói họ là những bông hoa tương lai của Phật giáo Việt Nam và Cô mong mỏi tất cả chúng tôi đều như thế.
Với lối sống giản dị và mang nhiều chất thiền, trong suốt quảng đời từ khi biết đạo và có nhân duyên phụng sự đạo pháp qua con đường giảng dạy và phiên dịch kinh điển, người đệ tử tận tâm, tận tụy của Hòa thượng nguyên Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam chứng tỏ là một trong những vị giáo sư Phật tử hiếm thấy, người đã có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam thời hiện tại. Viết lại những dòng chữ này như là một sự ôn lại những kỷ niệm khó quên của một thời được ‘thọ giáo’ với vị giáo sư mẫu mực và cũng là để tỏ lòng tưởng niệm và tri ân sâu sắc. Thân tứ đại thuận lẽ vô thường hòa vào dòng chảy của chúng nhưng những công hiến của Giáo sư Phương Lan vẫn còn hiển hiện nơi đây và tồn tại về sau. Xin được đốt nén tâm hương kính cầu nguyện Hương linh Giáo sư Cao đăng Phật quốc.
Người đi, tứ đại người đi
Âm vang bài giảng vẫn còn đâu đây
Trở về quê cũ trời Tây
Công trình nghiên cứu đựng đầy tủ kinh
(Viết từ Bangkok - Thái Lan)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4897)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7192)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4226)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4855)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5631)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6213)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3846)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5285)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5345)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13002)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567