Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Cảm Niệm Ân Sư

27/03/201123:35(Xem: 6076)
10. Cảm Niệm Ân Sư

(Nén tâm hương tưởng nìệm Cố Hòa Thượng thượng Trí hạ Chơn Giác Linh)

Ngưỡng bạch Giác Linh Hòa Thượng Ân Sư,

Sài Gòn nay chợt chuyển cơn mưa

Tình Nghĩa Ân Sư mấy cho vừa

Người về quê cũ, duyên đã mãn

Quặn thắt lòng con lệ tiễn đưa…

Mùa Xuân là mùa tràn đầy sinh lực, sum họp và hạnh phúc nhưng mùa Xuân Tân Mão năm nay con lại tiếp xúc với nhiều cảnh gìa nua, bệnh hoạn, tang tóc, phân ly,…Con chợt bàng hoàng, ngẩn ngơ, xúc động khi hay tin Hòa Thượng đã vĩnh viễn ra đi, xả bỏ thế gian, về miền Tịnh Lạc !...

Bao nhiêu ký ức, kỷ niệm ân tình với Hòa Thượng lại hiện về. Con có duyên phước gắn liền với Thầy trong suốt hành trình hơn 6 năm ở Hoa Kỳ vừa qua. Con đến Hoa Kỳ du học vào năm 2004 tại Đại Học Boston, Masachutsetts và ở Chùa Lục Hòa gần đó để vừa học, vừa sinh hoạt Phật Pháp. Ngay liền sau đó, Vu Lan năm 2004 Thầy đến Chùa Lục Hòa để con được diện kiến, đảnh lễ, Thầy hướng dẫn, ổn định cuộc sống tu học của con tại Chùa Lục Hòa và Hoa Kỳ.

Thầy có hình dáng mảnh khảnh, gọn gàng nhưng lại chứa đựng bên trong một nguồn năng lực dồi dào, bất khả tư nghì. Vì để tiết kiệm kinh phí cho Phật tử và có thể đi đến nhiều nơi, Thầy đã đi bằng xe buýt ( bus) di chuyển từ Đạo Tràng này sang Đạo Tràng khác và được mệnh danh là “Hòa Thượng xe buýt”.Hình ảnh một vị Hòa Thượng ngồi đợi chờ xe buýt. dịch kinh sách tại bến xe buýt thong dong tự tại quả nhiên là bài thuyết Pháp không lời hùng hồn sống động về khiêm tốn, giản dị, vô ngã, vị tha, dấn thân, nhập thế, chánh niệm, tỉnh giác, giải thoát,…Nơi nào khó khăn, đang cần thì Thầy đến, nơi nào đã ổn thì Thấy lại đi. Thầy không màng làm Trụ Trì một ngôi Chùa to Phật lớn, xung quanh luôn có nhiều đồ chúng đông vui mà xong Phật sự, Thầy lại trở về một Tịnh Thất tại Phật Học Viện Quốc Tế - Nam Cali. Đây là tấm gương xả ly vô trụ chấp, “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Thầy gần gũi và chia sẻ, hướng dẫn cho Ban Quản Trị, Ban Hộ Tự và các vị Trụ Trì trẻ không mệt mỏi ngày này sang ngày khác, nơi này đến nơi khác. Cứ như thế và với cách “ Lấy lớn nuôi nhỏ”,hỗ trợ lẫn nhau, từng bước phát triẻn mà Thầy thành lập, tổ chức sinh hoạt và cố vấn cho khoảng 30 Hội Phật giáo và hơn 20 ngôi chùa, Niệm Phật Đường ở khắp 15 tiểu bang tại Hoa Kỳ.

(tham khảo thêmhttp://www.chualinhmu.com/Gioithieu/gioithieu.htm)

Con được diện kiến Thầy khá nhiều lần : tại Chùa Lục Hòa (Boston), Chùa Huyền Quang – Springfield, Chùa Từ Ân - Lousiville (Kentucky), Chùa Viên Quang – Ohio, Phật Học Viện Quốc Tế, …Thầy với con có nhiều duyên gắn bó : Thầy là hậu duệ của Đức Đệ Tam Tăng Thống – Chùa Linh Mụ Huế, con là hậu duệ của Đức Đệ Tứ Tăng Thống- Tu Viện Nguyên Thiều, Bình Định, con được Thầy uỷ thác đến làm chủ Lễ, thuyết giảng, hướng dẫn khóa tu tập tại các Chùa mà Thầy làm cố vấn. Thầy chia sẻ tâm sự với con rất nhiều về lập trường, đường hướng sinh hoạt của Thầy, những khó khăn và kỷ niệm hành trình Thầy đã trải qua, những bài học, kinh nghiệm và hành trang mà người tu sỹ trẻ hành đạo nơi hải ngoại cần biết… Khi con còn ở Boston (2004-2006), Thầy muốn góp cho tiền cho con mua xe (car) đi học nhưng con nghĩ đi học bằng xe lửa cũng được chứ chưa cần đến xe hơi cho tốn tiền xăng và bảo hiểm nên thôi. Năm 2006, xét tình hình thực tế Chùa Viên Quang Ohio, Hoa Kỳ đang rất cần một vị Tu Sỹ trụ trì để ổn định tình hình và phát triển việc tu học sinh hoạt nơi đây, nên Thầy đã khuyên và giới thiệu con về đó. Sau đó, với cương vị Phó Chủ Tịch HDTS GHPGVNTNHN-HK, Thầy mang và đọc quyết định bổ nhiệm trụ trì cho con tại Chùa Viên Quang. Theo như sự hướng đạo của Thầy, con sinh hoạt, xây dựng và phát triển cơ sở tự viện Viên Quang này kể từ 2006 đến nay.

Với uy đức, khả năng và lòng tận tuỵ với Phật Pháp như vậy, Ngài được chư Tăng quy kính và cung thỉnh vào cương vị Phó Chủ Tịch Ngoại Vụ Hội Đồng Điều Hành của GHPGVNTNHN/HK. Đến năm 2008, trong Đại Hội Thành Lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ, Ngài được cung thỉnh vào ngôi vị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành cho đến ngày viên tịch.

Mặc dù hết sức bận rộn với công việc của chùa chiền, đạo tràng cũng như là công việc của Giáo Hội Thầy cũng tranh thủ từng chút thời gian để nghiên cứu, sáng tác cho hơn 15 đặc san, tạp chí, nguyệt san … và dịch thuật số lượng nhiều sách cho tư, tưởng, văn hoá, giáo dục Phật Giáo. Cái đáng quý của đời người không phải tính đếm bằng năm tháng ngày giờ đã sống mà là những gì người đó đã làm được và để lại cho đời. Quả thật, Thầy đã cống hiến rất nhiều cho Đạo Pháp, chúng sanh, trọn một đời bền bĩ, phấn đấu, phụng sự, “kiếp tằm nhả tơ”. Những gì cần nói, Thầy đã nói, những nơi cần đến, Ngài đã đến, những gì cần làm, Thầy đã làm. Giờ đây, công hạnh tròn đầy, cơ duyên đã mãn, đến lúc Thầy phải ra đi, thâu thần thị tịch.

Con còn nhớ rõ mồn một lần cuối cùng con đảnh lễ Thầy tại Phật Học Viện Quốc Tế , vào 2 tháng trước đây, đó là ngày 22/01/2011. Vì sợ trễ chuyến bay, nên nhiều lần con tự bảo lòng mình là tạm gác việc thăm Thầy chờ đến lần về Cali tiếp theo, nhưng lại đó nguồn động lực nào đó khiến con lái xe từ San Jose bon bon trực chỉ lên núi hướng về PHVQT thay vì lái đến phi trường Los Angeles. Phải chăng đó là uy đức của Thầy có một mãnh lực cuốn hút lớn lao, nỗi nhớ thiết tha sau một khoảng thời gian xa cách Thầy, nỗi khao khát đợi chờ đón nhận nguồn tiếp lực của Thầy cho một giai đoạn hành trình mới của con hay là đó là sự giao cảm tâm linh nhiệm mầu thôi thúc con có một cuộc hầu cận với Thầy lần cuối? Tuy rằng tuối già sức yếu, Thầy vẫn nhận ra con và Thầy vào phòng trong mang ghế ra cho con ngồi ( tuy rằng con khẩn khoản xin đứng hầu chuyện) và tặng cho con một cuốn sách về Ngài Đạt Lai Lạt Ma mà Thầy vừa dịch ( Thầy vẫn thường gửi sách Thầy dịch đến Chùa Viên Quang cho con). Con chú ý cách nói chuyện của Thầy lần này có khác hơn bao lần trước. Khi con hỏi : “Thưa Thầy, ưu tư quan tâm hàng đầu của Thầy, công việc Thầy đang chú trọng hiện nay là gì trong khi Thầy tuổi già sức yếu, lòng người đa đoan, nhân ngã thị phi, Tăng chúng chưa thực sự hòa hợp như nước với sữa, vào chung một khối?”. Thầy đáp : “Nghiệp của chúng sanh còn nặng, Thầy đã làm những gì Thầy có thể làm được mà thôi, có những điều dù muốn cũng chưa được, phần còn lại các Thầy hãy cố gắng tiếp tục làm. Nơi nào yên, phải lẽ thi nên ở, nơi nào thị phi phiền não khó tu thì nên tránh, tuỳ duyên và buông xả. Các Ngài lớp Thầy hầu hết ra đi rồi, Thầy cũng chẳng có gì để nắm giữ, còn ngày nào, Thầy chỉ chuyên tâm dịch sách và niệm Phật mà thôi.” “Dấn thân”, “Tuỳ duyên” và “Buông xả” là 3 bài học lớn đầy ấn tượng rút ra từ cuộc hội kiến với Thầy lần cuối đó. Con trân trọng lắng nghe những lời huấn thị của Thầy đến nỗi phải trễ và đổi chuyến bay mà con không hề hối tiếc. Ngồi chờ đợi tại các sân bay cũng như mãi mãi về sau này, con luôn vẳng vọng nghe được lời nhắc nhở đầy tình thương và huấn thị sâu sắc của Thầy

Người ra đi, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ mất đi một vị Chủ Tịch lãnh đạo rường cột sáng suốt, Tín đồ Phật tử khắp nơi mất đi một vị Thầy tận tuỵ, khả kính, bản thân con cảm thấy mất đi một đại thọ Bồ Đề, một vị ân sư gần gũi, thâm tình…

“Người đi, dấu vết chưa nhòa”, tuy Thầy không còn hiện diện nữa với hình hài, dáng vóc, nhưng Thầy đã hòa quyện vào bầu trời xanh, Ánh Thái Dương rạng rỡ, những ngôi sao sáng, chòm lá, khóm hoa, dòng nước chảy,…Hình ảnh của Thầy, ân tình sâu nặng và những lời giáo huấn đã thấm nhuần trong tim mạch biến thành nguồn thương và lẽ sống của đời con. Nén tâm hương hướng về Liên Toà của Ngài tại Calì con xin đảnh lễ tri ân duyên hội ngộ và giáo dưỡng của Người và cung tiễn Người vào cõi “vô tung bất diệt”. Người ơi! Người đã quyết định buông xả vạn duyên trần thế thật rồi sao hay là Người chỉ thay đổi lớp áo ngũ uẩn để tiếp tục một cuộc hội nhập mới vào cõi Ta bà và tiếp tục công hạnh của Người? Dù gì đi nữa, với con, Người đã ra đi nhưng vẫn còn ở lại, ngọn đuốc Ngài trao cho con vẫn còn chói sáng trong tâm thức và con nguyện khơi ngọn đuốc ấy mãi toả sáng giữa chốn trần gian đầy phong ba ô trược trong suốt hành trình kiếp nhân sinh và đời Tăng Sỹ của mình. Xin Người hãy chứng minh và tiếp tục gia bị cho con.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Linh Mụ Hải Ngoại Đường Thượng, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội Ư Hoa Kỳ, Hội Đồng Điều Hành Chủ Tịch, Húy thượng Tâm hạ Chánh, Hiệu Trí Chơn Trưởng Lão Hòa Thượng Liên Tòa Chứng Giám.

Hướng đến Linh Mụ Hải Ngoại và Liên Tòa Giác Linh Cố Hòa Thượng

Khể thủ,

Con : Tỳ Kheo Thích Đồng Trí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14856)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8482)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8571)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10233)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14149)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8328)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17043)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11937)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16660)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12789)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]