Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Hòa Thượng Thích Trí Chơn Con đường Hoằng Pháp và Văn Hóa - Nguyên Siêu

17/03/201118:23(Xem: 5177)
05. Hòa Thượng Thích Trí Chơn Con đường Hoằng Pháp và Văn Hóa - Nguyên Siêu

thichtrichon

Hòa Thượng Thích Trí Chơn

Con đường Hoằng Pháp và Văn Hóa

Nguyên Siêu

Giờ thì Hòa Thượng đã ra đi, ra đi chung quanh quý Thầy, Cô trong môn đồ pháp quyến đang nhất tâm niệm Phật để cung tiễn Hòa Thượng về với Phật.

Đôi ngày nằm ở bệnh viện, nhiều người đến hỏi thăm và hầu chuyện với Hòa Thượng, nhất là Ni Sư Giới Châu túc trực bên giường bệnh đã nghe Hòa Thượng nói nhiều lần, khi bác sĩ bệnh viện muốn thử nghiệm một số cơ phận để tìm hiểu bệnh lý của Ngài, Hòa Thượng dạy:

“Theo sự hiểu biết của tui, thì sự văn minh tiến bộ y học là điều rất cần thiết để cứu người, nhưng hiện tại mình đã là ông Thầy tu, mình có niềm tin trong sáng nơi Phật pháp; mình có chư Bồ Tát, chư Phật gia hộ; mình có Phật Dược Sư phát nguyện cứu độ chúng sinh. Mình nhất tâm niệm danh hiệu đức Phật Dược Sư, nếu nghiệp lực mình chưa phải chết thì nương nhờ Phật lực mà được khỏe mạnh lại, chi bằng đến lúc phải xả bỏ báo thân thì ngày đêm mình thường niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, thì mình về với Phật trong tâm nhẹ nhàng, thanh thản. Đây là điều tui suy nghĩ cả một đời tu hành. Quý Thầy, Cô đưa tui về Bát Nhã để tĩnh dưỡng đôi ngày rồi về với Phật, đó là con đường cuối cùng của ông Thầy tu. Quý Thầy, Cô hoan hỷ, Mô Phật.”

Nghe lời dạy của Hòa Thượng, ai cũng nhìn nhau cảm phục, cảm phục niềm tin kiên cố vào tánh đức Từ Bi, vào hạnh nguyện cứu khổ chúng sinh của ba đời chư Phật, và hôm nay Hòa Thượng đã ra đi trong sự cứu độ của chư Phật. Thượng Tọa Trí Thành, pháp đệ của Hòa Thượng, kể lại: “Quý Thầy, Cô hầu bên giường bệnh trước khi Hòa Thượng viên tịch khoảng nửa giờ, Hòa Thượng hãy còn hỏi thăm từng người một, hỏi thăm Chùa Linh Mụ trong cũng như ngoài nước. Căn dặn quý Thầy, Cô hãy gìn giữ những ngôi Tam Bảo mà Hòa Thượng đã xây dựng nhiều thập niên qua, ở nhiều tiểu bang, quý Thầy phải biết thương nhau, đùm bọc nhau mà sống nơi xứ người. Chỉ có mình biết thương nhau, đoàn kết với nhau thì cuộc sống mới có ý nghĩa, mới làm lợi lạc cho ngôi Tam Bảo, lý tưởng của người xuất gia. Không khí thân tình, dù người bệnh hay người khỏe, đều diễn ra tự nhiên, thanh thản, không ai nghĩ rằng sau đôi mươi phút truyện trò Hòa Thượng ra đi nhanh và tự tại như vậy.”

Sắc mặt Hòa Thượng đôi chút thay đổi, mắt hơi nhắm, yên lặng,nhẹ nhàng, Hòa Thượng an nhiên thị tịch giữa những lời niệm Phật tiếp dẫn. Thượng Tọa Trí Thành đưa tay vuốt nhẹ đôi mắt và nâng cằm của Hòa Thượng lên. Tất cả sự ra đi của Hòa Thượng chỉ có thế. Một đời Tăng sĩ 46 hạ lạp, đã được hiến dâng tất cả bằng tâm huyết nhiệt thành cho đời, cho đạo.

Con Đường Hoằng Pháp

Hòa Thượng là đệ tử của đức đệ tam Tăng Thống GHPGVNTN, đại lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chùa Linh Mụ, Huế. Suốt cả một đời hành điệu, cũng như khi lớn lên dưới mái chùa cổ kính nổi tiếng trên dòng Hương Giang ấy, Hòa Thượng đã luôn đặt trọng tâm vào công việc hoằng pháp và văn hóa. Con đường hoằng pháp của Hòa Thượng dù ở trong nước hay xuất ngoại du học Ấn Độ, tốt nghiệp học vị Tiến sĩ, du nhập vào đất nước Hoa Kỳ, Hòa Thượng luôn là người biểu tỏ tấm lòng cầu mong Phật pháp được lan truyền đến mọi tầng lớp xã hội, đến các quốc gia, dân tộc khắp nơi trên thế giới. Vì tâm nguyện này mà Hòa Thượng đã không từ nan, quản ngại mọi khó khăn, cách trờ xa xôi, Hòa Thượng đã dấn thân đi vào sinh hoạt các tổ chức Phật giáo của các quốc gia Á Châu như: Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Tích Lan, Mã Lai, Mông Cổ… để nghiên cứu tinh hoa của Phật giáo bạn chắt lọc ứng dụng cho Phật giáo Việt Nam, ngõ hầu đem Phật pháp vào lòng người.

Từ những nghiên cứu cho công cuộc hoằng pháp ở các quốc gia Đông phương, Hòa Thượng cũng đã nỗ lực không ngừng để tâm nghiên cứu, tham khảo con đường hoằng pháp của các tổ chức Phật giáo và văn hóa của các quốc gia Âu Tây như: Anh, Pháp, Đức, Ý, Bỉ, Hòa Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Phần Lan, Thụy Điển, Hy Lạp, Tây Ban Nha… trước sau như một, Hòa Thượng đã thật sự hiến thân phụng sự đạo pháp. Qua bao thập niên, với tấm thân nhỏ nhắn, ốm gầy, trên vai một tay nải, trong tay một túi xách vật dụng tùy thân, một cuốn sổ nhỏ ghi lịch trình sinh hoạt thuyết giảng các Tự Viện, mà Hòa Thượng đã thành lập cho các Phật tử địa phương, Ngài đã rày đây mai đó đi khắp các tiểu bang Hoa Kỳ. Bằng tấm lòng phụng hành di ngôn của Phật: “Này các Tỳ kheo, các con hãy đi và đi một mình. Đi vì sự bình an, hạnh phúc cho con người và chư Thiên. Đi để đem giáo pháp giải thoát cho muôn nơi và chúng sinh trong cuộc đời này. Các con hãy lên đường vì hạnh phúc và lợi ích chung.” Hòa Thượng đã đi đến từng địa phương hẻo lánh ở các tiểu bang xa xôi, nơi có cư dân người Việt tha hương tị nạn để xây dựng cho họ đời sống tâm linh nơi hải ngoại. Trong công cuộc hoằng pháp này, Hòa Thượng đã đích thân lãnh đạo tinh thần, chứng minh Đạo Sư, hay cố vấn các Tự Viện, Hội Phật giáo, cộng đồng Phật giáo … khoảng 36 đơn vị của các tiểu bang Hoa Kỳ. Cuộc hoằng pháp đi sâu vào hạ tầng cơ sơ của Hòa Thượng đã tạo dựng nền móng vững chắc cho Giáo Hội, bồi đắp và giữ vững niềm tin Phật pháp của cộng đồng Phật tử nơi đó. Hòa Thượng đã được tôn xưng là vị Tổ khai sơn các Tự Viện, Hội Phật giáo, cộng đồng Phật giáo của các địa phương ấy. Ngài được phong tặng biệt danh “Hòa Thượng xe bus” để nêu cao công hạnh hy sinh, kham nhẫn, hoằng dương Phật pháp bằng những phương tiện di chuyển khiêm tốn trên những chuyến xe lửa tốc hành, trên những chuyến bus xuyên bang suốt đêm với những gói chip, những phần ăn thanh cảnh nơi các trạm xe mà hoàn thành Phật sự hóa độ sâu dày.

Con Đường Văn Hóa

Nếu nói rằng con đường Hoằng Pháp là tâm huyết của Hòa Thượng thì con đường Văn Hóa là tim óc một đời của Hòa Thượng để có được những dịch phẩm nổi tiếng để đóng góp cho ngôi nhà văn hóa Phật giáo Việt Nam hải ngoại. Hòa Thượng có khoảng 22 dịch phẩm với chủ đề: Tổng Quan Phật giáo, Truyện Tích, Nhân Vật Phật giáo, Phật Giáo và Thời Đại, Phật Giáo và Xã Hội, Phật Giáo Thế Giới … Ngoài ra Hòa Thượng còn có những tài liệu khác nằm trong bản thảo chưa kịp xuất bản. Thật là một đóng góp lớn lao cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nơi hải ngoại. Một số các tác phẩm của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng cũng đã được Hòa Thượng phiên dịch và phổ biến trên các tạp chí. Có dịp ghé thăm Hòa Thượng tại Phật Học Viện Quốc Tế sẽ thấy cả một phòng đầy sách vở, từ trên kệ sách cho đến bàn ghế hay trên mặt đất, đó đây sách và sách. Hòa Thượng đã sống với kinh sách cho đến ngày từ giã ra đi.

Hòa Thượng sống đời tự lập và tự dưỡng cho đến khi tuổi già sức yếu, răng không còn Hòa Thượng tự nấu cháo gạo lức xay nhuyễn để uống. Hòa Thượng quan niệm đó là văn hóa tự thân của Ngài, cố gắng tự lo mọi việc cá nhân để tránh làm phiền mọi người trong cuộc sống riêng tư. Hòa Thượng đi hoằng pháp, làm văn hóa một mình một bóng như những cánh vạc khuya giữa đêm trường cô tịch, khi đi cũng như lúc về chẳng ai hay biết, chỉ có con tàu và sân ga làm bạn đồng hành.

Từ nền văn hóa tự thân phát huy nền văn hóa quần chúng, Hòa Thượng đã để lại một kho tàng văn hóa dịch thuật cả đạo lẫn đời, biết bao nhiêu bút mực, dầu đèn sớm hôm khuya tối. Lời viết có hạn, công đức Hòa Thượng thì vô cùng. Vô cùng như hành trạng một bậc Cao Tăng hiện thân vào đời để hóa độ, khi công viên quả mãn thì nhẹ nhàng cất bước ra đi, không bận tâm lưu luyến.

Hai con đường hoằng pháp và văn hóa đã nuôi lớn Hòa Thượng trong chí nguyện độ sinh và ngày về với Phật. Hôm nay, những gì đáng độ, Hòa Thượng đã độ, ngày về với Phật thì Hòa Thượng cũng đã về, chỉ còn lại hàng hậu học với niềm thương nhớ đầy vơi.

San Diego, 16 tháng 03 năm 2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4902)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7223)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4234)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4872)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5642)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6243)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3860)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5303)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5352)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13029)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567