Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung

08/04/201319:01(Xem: 5212)
Tiểu sử Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung

Đối với Phật giáo Huế nói riêng, Phật giáo Nam Hà nói chung, tổ Minh Hoằng Tử Dung có một vị trí thật đặc biệt. Bởi xét cho kỹ, đây là vị Sơ Tổ của Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán ở Huế.



    Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”.

    Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.


    To Su Minh Hoang Tu Dung

    Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung 


    Tuy nhiên, một sự may mắn là tại chùa núi Phụng Sơn ở phủ Bình Khang còn có một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng khắc vào giữa tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), và trong quyển Liệt Tổ thiền truyện của ngài Bổn Quả Khoáng Viên khắc tại Trung Quốc, sau các Đại sư ở Thuận Hóa trùng khắc và tục biên; một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng của ngài Chơn Kim Pháp Lâm soạn năm 1889 (Hiện chùa Viên Thông - Huế tàng bản) đã giúp chúng ta biết được các chi tiết sau: 
     

    Vào cuối đời Minh, tông Lâm Tế rất long thịnh ở Thiên Đồng Sơn và Khánh Sơn. Tại Thiên Đồng Sơn có phái Thiên Đồng Viên Ngộ; từ chùa Thiên Đồng có ngài Thông Thiên được phong làm Quốc sư hiệu là Hoằng Giác gọi là Quốc sư Thông Thiên Hoằng Giác, ở vào đời thứ 31 dòng Lâm Tế. Ngài này truyền thừa theo kệ của ngài Vạn Phong Thời Ủy; chúng tôi gọi là “kệ chùa Thiên Đồng”:

                                                  祖  道  戒  定  宗 
                                                  方  廣  證  圓  通 
                                                  行  超  明  實  際 
                                                  了  達  悟  真  空 

                                                  Phiên âm:


                                                 Tổ Đạo Giới Định Tông,
                                                 Phương Quảng Chứng Viên Thông,
                                                 Hạnh Siêu Minh Thật Tế,
                                                 Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.

                                                 Tạm dịch:

     
                                                 Giới định là tông chỉ,
                                                 Rộng khắp chứng thần thông;
                                                 Hạnh vượt sang bờ Thật,
                                                 Tỏ ngộ đến chơn không. 
     
    Đồng thời Ngài cũng biệt xuất kệ và ra khai sơn chùa Thiên Khai. Kệ của Ngài là: Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên...; cũng đồng thời Ngài tự đổi Pháp húy thành Đạo Mân Mộc Trần; đó là kệ chùa Thiên Khai.

    Ngài viên tịch vào triều Lê, không rõ năm nào chỉ thấy ghi ngày 16 tháng 11.

    Có thể Ngài đã qua Nam với nhiều Ngài có chữ “Minh” đứng trước, các Ngài có thể ở chùa Thiên Đồng, có thể ở chùa Thiên Khai, chùa Báo Tư v.v... Nhưng  đều đi một lần với ngài Nguyên Thiều Hoán Bích vào năm 1676 hoặc 1677, cùng đổ bộ lên Quy Ninh. Ở đây, chúng tôi sẽ nói đến mấy vấn đề cần yếu sau:

    Trong bộ sách Việt Nam Phật giáo sử lược (1942), đã được in lại nhiều lần, Hòa thượng Mật Thể cho rằng: Tổ Minh Hoằng Tử Dung qua Thuận Hóa một lần với ngài Thạch Liêm vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) để ngồi trên ghế Thập Sư ở giới đàn  chùa Thiên Mụ; sau giới đàn Ngài ra lập chùa Ấn Tôn. Đoạn này, rất cần đến sự đính chính của hậu thế chúng ta. Thứ nhất, ngài Thạch Liêm qua Thuận Hóa năm Ất Hợi (1695) đời Nguyễn Phúc Chu, chứ không phải qua vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái. Thứ hai, đại giới đàn năm Ất Hợi (1695) mở tại chùa Thiền Lâm chứ nhất định không phải là ở chùa Thiên Mụ. Thứ ba, tất cả chư Tăng trong đại giới đó đều là người Trung Quốc đệ tử của Thạch Liêm Thiền sư chứ không có ai khác, cho nên Tổ Minh Hoằng Tử Dung không can dự đến giới đàn này.

    Cũng trong sách nói trên, Hòa thượng Mật Thể đã dịch câu này trong văn bia: “Nhâm Thìn hạ, Hòa thượng lai quảng tấn toàn viện” thành ra như thế này: “Năm Nhâm Thìn (1712) mùa hạ, Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện” (?). Có lẽ Hoà thượng Mật Thể đã theo bản Pháp văn của Louis Sogny trong bài Le premier Annamite... ở B.A.V.H. Số 3 năm 1928, khi nói đến Tổ Từ Lâm. Thực sự, có lẽ câu ấy muốn nói rằng mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712) ấy, lễ an cư kiết hạ được tổ chức rất quy mô ở thiền viện Thiền Lâm thuộc vùng đất rất rộng trước mặt chùa Từ Đàm hiện nay; có thể chư Tăng ở Thuận Hóa - Quảng Nam vân tập về đây và toàn viện đã cung thỉnh ngài Tử Dung ở Ấn Tôn gần đó đến làm Thiền chủ. Cách chấm câu ấy có thể là: “Hòa thượng lai, quảng tấn toàn viện” tức là Hòa thượng đến, coi sóc nhắc nhở chu đáo mọi việc và sách tấn, khuyến khích chư Tăng để khai lễ cho chư Tăng vào hạ.

    Phương pháp hoằng giáo của sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng là phương pháp của chư Thiền Tổ trong phái Lâm Tế chánh tông; tức là trao công án cho đệ tử “tham”. Công án Tổ Minh Hoằng Tử Dung đã trao cho ngài Liễu Quán là: “Vạn Pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (萬法歸一一歸何處). Yếu  chỉ của Thiền Lâm Tế là đốn ngộ. Không kể lâu hay mau, khi vị Đại sư tham công án đến tột cùng, hoát nhiên ngộ đạo. Vị Thiền sư ngộ đạo sẽ biểu lộ bằng một hành động mà thế nhân thấy rất kỳ quặc, khác thường; hoặc làm một bài “kệ” để trình Tổ. Thấy đệ tử đạt, Thiền Tổ liền ấn chứng, người ta còn gọi là “ấn khả”, và chính vị Thiền sư được ấn khả đó là Tổ kế thế của vị Tổ trước. 

    90tolieuquan2 
    Ngài Liễu Quán đắc Pháp ở Sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng theo truyền thống Lâm Tế chánh tông ấy. Theo thuyết truyền thì trong kỳ kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712); sau khi ngài Liễu Quán trình Kệ “Dục Phật” - rất tiếc là bài kệ này không được chép lại - Sơ Tổ Minh Hoằng liền "ấn khả". Từ giờ phút được ấn khả thì “y bát” của Minh Hoằng Tử Dung Sơ Tổ tại Ấn Tôn Hoàng Long Sơn, đã đi về núi Thiên Thai. Sau một thời gian Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán phát triển rực rỡ khắp cõi Thuận Hóa và lan ra cả Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, kéo dài cho đến tận ngày nay.

    Tháp của Tổ Minh Hoằng Tử Dung trước đây được xây dựng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, nhưng sau đó do Pháp mở đường Nam Giao cắt vườn chùa làm hai mảnh, nên tháp của Tổ Tử Dung phải di dời qua gởi ở góc vườn chùa Báo Quốc. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó có điều kiện sẽ thỉnh tháp của Tổ quay lại sân chùa Từ Đàm như thuở ban đầu vốn có của nó.

    HT. Thích Hải Ấn




    Ý kiến bạn đọc
    17/11/201921:47
    Khách
    Ngài Minh Hoằng Tử Dung qua Nam Hà cùng chuyến thuyền buôn theo Suc971 sơ Tổ Nguyên thiều qua đất Nam Hà truyền pháp phái Lâm Tế.Truy và so ra thế thứ của Ngài minh hoằng thogn61 thuộc dòng LT kệ Tổ đạo Giới định Tông thuộc thế hệ thứ 34 dưới Đức Sơ tổ NT 1 đời kể luôn ngài Minh Hải-Pháp Bào sau nầy Ngánh ra phái Chúc Thánh cũng đời 34;chí đến ngài Thiệt Diệu-Liễu quán thuộc đời 35 nhỏ dưới Đức Sơ Tổ 2 đời[Cùng 1 đời với Đức tăng cang Quốc Sư Thiệt Thành-Liễu Đạt mà triều đình tôn là Liên Hoa Thiền Sư].Nhân đây nói cho rạch ròi kẻo có ai đây dụng tâm Ém sự tiên khởi truyền pháp phái vô Nam hà của Đức khai Sơn 2 ngôi Đại Doanh Lam cổ Soái sắc tứ Thập Tháp;Quốc Ân và trùng tu Hà Trung;muốn coi rỏ vui lòng truy trong sách VN PG sử Lược của Ngài Mật THể chùa Trúc Lâm Huế
    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    01/12/2013(Xem: 7212)
    Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh (1) đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật. Ngày xuất gia năm 12 tuổi ở chùa làng. Ðến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ Túc giới và giữ chức thư ký trong chùa.
    27/11/2013(Xem: 9292)
    Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm thế danh là Phan Diệp, sinh ngày 9 tháng Giêng năm Tân Hợi (1911) tại Thôn Chánh Lộc, Xã Xuân Lộc, Huyện Đồng Xuân, (thuộc Huyện Sông Cầu ngày nay), Tỉnh Phú Yên. Thân phụ là Cụ Ông Phan Châm. Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Tham. Ngài là người con thứ hai trong gia đình có năm anh chị em. Gia đình Ngài là một gia đình có truyền thống nhiều đời uy tín Tam Bảo.
    10/11/2013(Xem: 36611)
    9780975783085, Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, theo Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương, khách hành hương sẽ nhìn thấy một quần thể kiến trúc nổi bật trong vùng cư dân này, đó là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner
    21/10/2013(Xem: 10154)
    Suốt thời gian nhập thất là 3 năm, tuy ăn uống đạm bạc nhưng nhờ sức chuyên tu bệnh tật của thầy cũng được tiêu trừ và trí tuệ khai minh, nguồn tâm sáng tỏ. Khoảng thời gian này, nhiều tác phẩm KINH – LUẬT – LUẬN được thầy dịch thuật và chú giải từ bản Hán văn sang Việt văn như: kinh Phổ Môn, kinh Di Đà, kinh Địa Tạng, kinh Pháp Hoa, kinh Hồng Danh, kinh Thập Ác Báo - Thập Thiện Nghiệp, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh Địa Tạng Chiêm Sát, kinh Trường Thọ Diệt Tội, kinh Đại Thừa Công Đức Tạo Tượng Phật, kinh Khiệp Bảo Ấn Đà La Ni, kinh Bồ Tát Thiện Giới, kinh Văn Thù Vấn Phật, Phật Học Giáo Khoa Thư, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Hạnh Nghi Người Tu Học Phật …
    19/10/2013(Xem: 6194)
    Trưởng Lão Hòa Thượng thế danh Tôn Thất Thuế, sinh năm 1924 tại thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài thuộc dòng dõi hoàng gia Đệ cửu hệ, Tứ phòng. Phụ thân là Cụ ông Tôn Thất Tích, pháp danh Nguyên Phước, mẫu thân là Cụ bà Phan Thị Cưỡng, pháp danh Nguyên Thâm, đều là những nông dân hiền lương, chất phác. Ngài có tất cả năm anh chị em, hai trai, ba gái. Hiện tại, một gái đã mất, còn Ngài và hai em gái đều theo Phật xuất gia. Hai thân Ngài đều đã khuất núi.
    15/10/2013(Xem: 22661)
    (Báo Viên Giác, Số 197, tháng 10-2013, Số Đặc Biệt tưởng niệm Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
    10/10/2013(Xem: 13171)
    Phạm Thiên Thư, Phạm Công Thiện, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, Phạm thế Mỹ, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Trí Hải...
    06/10/2013(Xem: 65169)
    Trước khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đã có một thời gian dài sống tại Lăng Cha Cả, gần nhà thờ Tân Sa Châu. Để đến được trung tâm Sài Gòn, từ Lăng Cha Cả phải đi qua những con đường Trương Minh Ký – Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sĩ). Ở đoạn chân cầu Trương Minh Giảng có một cái chợ mang cùng tên và sau này
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
    KHÁCH VIẾNG THĂM
    110,220,567