Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hương Đạo Xa Bay - Hạnh Kiên, Hạnh Châu

28/09/201010:35(Xem: 4251)
Hương Đạo Xa Bay - Hạnh Kiên, Hạnh Châu

Bình dị mà sâu lắng, nghiêm nghị mà từ bi; vầng trán rộng, gương mặt gầy, đôi mắt sâu mà tinh anh ngời sáng. Mình như “chim hạc”, tay chân như “lóng tre khô đầy khúc khuỷu”; ăn uống như một nhà khổ hạnh, nói cười chừng mực, điều độ từ hòa… Đó chính là chân dung Thầy - người cha Đạo pháp đã dẫn dắt chúng con đi, dưỡng dục, che chở cho chúng con suốt hai mươi năm trời…

HTQUANGTAM

Chân Dung Thầy

Hai mươi năm trước, khi mới bước chân vào chùa, người đầu tiên mà chúng con gặp chính là Thầy. Thầy đang ngồi nhổ cỏ, dáng nhỏ nhắn trong chiếc áo vàng cũ kỹ, đôi tay thoăn thoắt như một nhà nông chuyên nghiệp. Thầy đó, vậy mà chúng con cứ ngỡ không phải, vì chúng con đâu biết rằng những bậc Thầy lớn thường rất giản dị!

Ngày đó, Vĩnh Đức chỉ có một chánh điện nhỏ xíu (mỗi khi tụng kinh, lớp điệu chúng con phải đứng tận hiên, tràn ra cả sân ngoài), một dãy phòng Tăng chật chội (mà số Tăng chúng có lúc lên đến trăm người), một giảng đường với những bộ bàn ghế mộc mạc, một trai đường vừa phải và một nhà bếp vách mái bằng tranh (mỗi ngày chúng con chia nhau đi chợ, nấu ăn, rửa chén). Bữa cơm thường đạm bạc với chén nước tương, tô canh rau, đậu bắp luộc, “cù lần” kho. Không có tiền đi chợ, chúng con phải tăng gia sản xuất; Ban Tri khố cử người đi xin những rau củ quả thừa ở chợ về nhặt lại làm đồ ăn cho đại chúng. Những ngày đó, khổ mà vui. Vì chúng con còn có Thầy bên cạnh. Thầy là linh hồn của tu viện, là điểm tựa vững chãi của chúng con.

Thuở đó, Thầy cũng chỉ mới bốn mươi ngoài, nhưng trong mắt chúng con, Thầy thật lớn lao, vĩ đại. Cũng như chúng con, Thầy xuất gia thuở còn niên thiếu (14 tuổi), rồi từ miền Trung xa xôi khăn gói vào Sài Gòn tu học, trải qua hầu hết các Phật học viện danh tiếng thời bấy giờ, như: Giác Sanh, Huệ Nghiêm, Nguyên Thiều, Hải Đức, Vạn Hạnh. Năm 25 tuổi, Thầy về vùng quê Thủ Đức dựng một ngôi chùa lá - tiền thân của tu viện Vĩnh Đức ngày nay; nơi đây, Thầy chuyên trì kinh Pháp Hoa, rồi dấn thân hoạt động vì lợi ích cộng đồng: mở Ký nhi viện, mở các lớp học tình thương và giảng dạy miễn phí cho học sinh nghèo trong vùng.

Khởi đầu từ sự nghiệp giáo dục và dấn thân đến suốt cả cuộc đời, Thầy tuy không bằng cao chức trọng, song lại là một tấm gương sáng cho chúng con noi theo. Năm 1989, Thầy đã cùng chư tôn đức trong Ban Đại diện huyện nhà vận động mở trường Cơ bản Phật học TP.HCM cơ sở II tại chùa Thiên Minh, huyện Thủ Đức (nay là Q.9). Do cơ sở trường còn nhiều hạn chế, Thầy đã mở rộng vòng tay đón nhận một số lượng lớn học Tăng từ khắp nơi tựu về; Vĩnh Đức, từ một ngôi chùa lá, trở thành một tu viện - cái nôi hun đúc, đào tạo Tăng tài. Tiếp theo, Thầy mở thêm các lớp học gia giáo, các lớp bổ túc văn hóa tại chùa. Khóa Cơ bản kết thúc, Thầy lại mở các lớp Sơ cấp và làm Chủ nhiệm suốt 5 khóa, mỗi khóa đào tạo trên 200 Tăng Ni sinh.

So với nhiều danh Tăng đương thời, sự nghiệp giáo dục của Thầy vẫn còn khiêm tốn, song điều mà không phải ai cũng thực hiện được đó chính là việc tổ chức, chăm lo cho chúng học Tăng một cách tận tình, không phân biệt chúng đệ tử hay chúng lưu trú y chỉ. Tất cả đều bình đẳng trong tình thương bao dung của Thầy. Vĩnh Đức, vì vậy, như một mái ấm gia đình mà Thầy vừa là cha, vừa là mẹ. Ai đến tu học ở đây cũng đều được Thầy lo mọi thủ tục, giấy tờ, kể cả các khoản học phí (mà với số lượng học Tăng theo học từ Phật học cho đến thế học, con số này không nhỏ). Thuở đó, dù còn bé, chúng con vẫn cảm nhận được nỗi khổ tâm rất lớn của Thầy. (Thầy từng chạy vạy mượn đầu này một ít, đầu kia một ít để lo đóng học phí cho chúng con, trễ nãi thì sẽ bị nhà trường đuổi học. Có lần, Thầy phải bán rẻ chiếc xe máy dùng để đi lại vì mấy chục học Tăng chúng con đang chờ tiền từ Thầy!).

Trải qua hơn 30 năm, kể từ năm 1989, số chư Tăng trưởng thành rời khỏi tu viện đến các trú xứ khác tu học, hành đạo kể đến con số hàng trăm, trải đều từ Nam chí Bắc, nhiều vị hiện đảm trách các chức vị quan trọng của Giáo hội. Những khi có cơ duyên gặp mặt, chúng con đều ôn lại những kỷ niệm vui buồn những ngày Vĩnh Đức, nhất là về Thầy. Ai trong chúng con cũng từng có lúc bị Thầy trách phạt, nhưng ai cũng nhận thấy rằng, nếu không có Thầy, thì chúng con không thể có được ngày hôm nay - không chỉ những người còn đang tu tập, mà những người đã hết duyên với con đường “xuất thế tục gia” cũng thế!

Có lẽ ít ai có duyên với Tăng trẻ và có kinh nghiệm giáo dưỡng, đào tạo Tăng trẻ hơn Thầy. Cứng rắn mà độ lượng, nghiêm khắc mà từ bi, Thầy luôn dung hòa được tình và lý để hóa độ chúng con - lớp trẻ còn ham chơi, ham ăn, ham ngủ. Do số lượng Tăng chúng đông, nên mỗi năm Thầy đều tổ chức cho chúng con An cư tại chỗ, thỉnh chư vị Hòa thượng chứng minh để chúng con noi theo tu học. Mùa Hạ là mùa thật đáng nhớ với những thời tụng kinh lạy Phật, những buổi học tập, những kỳ diễn giảng, những hôm làm báo tường, đặc biệt là thực hiện tập nội san Hương Đạo. Đây là diễn đàn trao đổi kiến thức, kinh nghiệm tu tập của chư Tăng, và cũng là “kênh” tâm sự của đại chúng, nên dù khó khăn thế nào Thầy cũng nhất định duy trì, thậm chí “nặng lòng” với nó. (Đến nay, Hương Đạođã vượt được chặng đường 15 năm với 23 số báo).

lekhaimacgiodan

Thầy (thứ 2, hàng nhì) cùng Chư Tôn Giáo Phẩm tại Đại Giới Đàn Pháp Hóa - Quảng Ngãi

Càng sống bên Thầy, chúng con càng nhận thấy đằng sau nét khô khan, nghiêm nghị là một tình cảm dạt dào. Nhưng cái tình mà chúng con cảm động hơn hết chính là cái tình của Thầy dành cho quê hương xứ sở. Dù xa quê từ năm 15 tuổi và rất ít khi trở về thăm nhà, nhưng Thầy lại dành cho Quảng Ngãi - nơi chôn rau cắt rốn, cũng là nơi cát ái từ thân, bước đầu vào đạo - một tấm lòng sâu nặng. Dĩ nhiên đó là tấm lòng vì đạo. Những năm sau này, Thầy luôn hướng về với Phật giáo Quảng Ngãi, cùng với chư tôn đức trong Ban Trị sự và Ban Quản trị môn phong khôi phục lại Tổ đình Sắc tứ Từ Lâm, mở các khóa An cư kiết hạ, đặc biệt tổ chức thành công Đại giới đàn Pháp Hóa cho hơn 300 giới tử Tăng Ni cầu thọ giới pháp - sự kiện mà hơn 40 năm qua Phật giáo Quảng Ngãi chưa có điều kiện thực hiện.

Mùa Hạ năm nay, dù sức khỏe đã cạn kiệt, Thầy vẫn khăng khăng đòi về Quảng Ngãi nhập Hạ, chúng đệ tử hết sức can ngăn Thầy mới thuận lời ở lại. Thầy còn dặn chúng con chuẩn bị tư liệu, hình ảnh, bài vở đầy đủ để cuối năm nay thực hiện tập kỷ yếu lưu niệm Đại Giới đàn. (Thầy từng nói rằng, tổ chức xong Giới đàn này, Thầy có chết cũng an lòng!).

… Và quả thật, Thầy đã an lòng ra đi giữa tiếng niệm Phật chí thành của tứ chúng đệ tử. Đó là lúc 15 giờ 15 phút, ngày 21 tháng Tư năm Canh Dần (nhằm ngày 03 tháng 6 năm 2010).

Trong suốt cuộc đời - 64 năm và 38 mùa An cư kiết hạ - Thầy chỉ cho đi mà chưa hề nhận lại. Thầy vì đại chúng chứ chưa bao giờ vì bản thân mình. Thầy như cây đại thụ, và chúng con là bầy chim chóc. Chim càng đông thì đại thụ chỉ thêm gãy cành, khô lá. Có lẽ vì vậy mà Thầy luôn luôn gầy ốm. Nhưng PHỤNG SỰ chính là con đường Bồ tát đạo của Thầy, nên đối diện với muôn vàn khó khăn, gian khổ, Thầy vẫn luôn có được sự an lạc, hạnh phúc cho riêng mình.

Giờ đây, chốn Cực lạc, Thầy thượng phẩm thượng sinh. Tuy vậy, chúng con vẫn mong Thầy sớm hồi nhập Ta bà để hóa độ chúng con, để cho chúng con và Thầy vẫn giữ mãi tình Sư - đồ cho đến ngày thành Phật!

Đệ tử đồng kính bái

Hạnh Kiên - Hạnh Châu cẩn bút

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2011(Xem: 5515)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 14282)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7593)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
25/05/2011(Xem: 4209)
Đại lão Hòa Thượng Thích Đồng Huy HT. Thích Đồng Huy - Thành viên HĐCM, Ủy viên HĐTSTW GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Trưởng ban Quản trị Đại Tòng Lâm, Viện chủ Tu viện Vạn Hạnh.
05/05/2011(Xem: 4895)
Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.
23/04/2011(Xem: 4101)
Thầy đã đọc toàn bộ bài “Tham luận” Nhân trong ngày “Hội thảo” nhớ “Tổ Sư”, Sự nghiệp tu chứng đắc lý chơn như “Ngài Liễu Quán”, sáng gương ngàn thế hệ.
21/04/2011(Xem: 7181)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
16/04/2011(Xem: 5905)
Kính lạy thầy, Trước mắt con là di bút Thầy để lại, nét chữ thân quen với màu mực còn đậm nét tinh khôi. Nghiệp đã qua rồi lòng nhẹ nhõm Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong Thầy vừa an nhiên xã bỏ báo thân, dãi mây bạc giờ nương theo gió loãng tan mất dấu. Nẻo sinh tử Thầy thong dong qua lại, như đi trên những dặm đường quen để gieo trồng hạt giống từ bi, giáo hóa, độ sinh. Thân bệnh Thầy mang trong những năm tháng sau này, cho con biết rõ vô thường tất đến. Vậy mà nỗi đau đớn, bàng hoàng vẫn khơi động trong con khi đón nhận tin xa, bởi từ đây con vĩnh viễn mất Thầy trong kiếp sống này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567