Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn mươi chín năm xin đừng quên

26/04/201215:06(Xem: 17204)
Bốn mươi chín năm xin đừng quên

Trong quảng tâm khảm tôi, có hai mùa Phật Đản đáng nhớ nhất, không thể nào quên. Đó là Phật Đản đẫm máu và nước mắt trong mùa Pháp nạn 1963, và Phật Đản huy hoàng 1964 với một lễ đài sừng sững bên sông Sài gòn.

BotatQuangDuc

Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức, thiêu cháy bạo quyền, làm nên một dáng đứng Phật Giáo Việt Nam (PGVN) cao vợi với ngọn cờ ngũ sắc no gió tung bay.

Phong_Trao_Dau_Tranh_Phat_Giao_1

Phong_Trao_Dau_Tranh_Phat_Giao_2

Mùa Phật Đản (1964) với niềm tự hào Hùng Lực, làm sáng tỏ chân lý ngàn đời bằng tinh thần bất bạo động. Một mùa Phật Đản mà tôi, với tuổi thơ vừa qua cơn dư chấn kinh hoàng năm trước đó, ung dung bước vào nẻo đạo với một tinh thần phấn chấn lạ thường. Một mùa Phật Đản mà trong suốt cuộc đời phụng sự chánh pháp cho đến tận bây giờ tôi chưa hề thấy có lại một lần thứ hai.

Phong_Trao_Dau_Tranh_Phat_Giao_3

Phong_Trao_Dau_Tranh_Phat_Giao_5

Lịch sử còn ghi lại những điều đó, cho đến tận ngày nay, 49 năm - non nửa thế kỷ - sự thật vẫn còn tiếp tục phơi bày trong nhiều góc độ. Điều này cũng có nghĩa rằng sự thật lịch sử mùa Pháp nạn 1963, với PGVN tuy không muốn khơi lại vết đau, cũng có thể gọi là sự tủi nhục của một tôn giáo gắn liền với vận mệnh dân tộc hơn hai ngàn năm. Nhưng lịch sử thì vẫn theo dòng chảy của nó, nhất là đối với những vị nghiên cứu chuyên môn hoặc một phần là nạn nhân, thì theo từng khoảng thời gian thuận lợi, từng sự thật được phơi bày.

Những tài liệu mới đây được phổ biến rộng rãi đã nói lên điều đó, như “HUẾ-NHỮNG THÁNG NGÀY SỤC SÔI”của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, được đăng nhiều kỳ trên báo Tuổi Trẻ. Đặc biệt ở nước ngoài thì có nhà nghiên cứu James S.Olson và Giáo sư sử học Randy Robertsviết chung cuốn sách có giá trị lịch sử sâu sắc mang tên“WHERE THE DOMINO FELL”(chương 4.The new Frontier in Vietnam, 1961-1964), NXB Brandywine Press, New York, Third Edition.

Đó là những cứ liệu biện minh cho sự kham nhẫm của PGVN thời mạt pháp dưới bàn tay gia đình trị hộ Ngô, mà cho đến bây giờ vẫn còn có những tư tưởng ngây thơ hay giả đó ngây thơ cho rằng đó là việc của gia đình họ Ngô. Dường như với họ, PGVN kham nhẫn, chịu đựng, hy sinh như thế vẫn chưa đủ, nhất là từ sau năm 1964 trở về sau.

Làm sao có thể quên được câu nhận định nửa chua xót lẫn mỉa mai của Giáo sư Cao Huy Thuầnrằng “Phật giáo ở một nước có văn hóa Phật giáo truyền thống, mà đòi bình đẳng tôn giáo, nghe lạ đời, nghe ngược tai…” (nguồn: báo TN.HỒI CHUÔNG BÁO TỬ.22/04/2010).Chỉ cần như vậy thôi những người yêu chuộng tự do, hòa bình và trân trọng sự thật lịch sử, cũng phải nghiêng mình trưới thái độ Bi-Trí-Dũng tuyệt vời này của PGVN, nói chi đến lòng độ lượng, bao dung trong tinh thần cứu khổ ban vui.

Chính vì vậy dường như 49 năm qua, sự thật lịch sử này chỉ do một phía từ các nhà nghiên cứu, các vị hoạt động trong nhiều lãnh vực ngoài xã hội công bố. PGVN vẫn giữa nguyên vẹn tinh thần nhất quán của mình từ hơn hai ngàn năm nay hiện diện trên mảnh đất Việt nam này. Sự lặng thinh nếu không được hiểu theo nghĩa tích cực thì ít nhất nó cũng nói lên được tính khách quan của sự việc đau thương mùa Pháp nạn 1963.

Le_Dai_Phat_Dan_1964_tai_Ben_Bach_Dang_Saigon_anh_den_trang-Tu_lieu_gia_dinh_DKT_

Lễ Đài Phật Đản 1964 tại Bến Bạch Đằng Sàigon (ảnh đen trắng-Tư liệu gia đình DKT)

Một mặt tối khác, chính sự kham nhẫn này của PGVN mà một bộ phận cực đoan vẫn chưa chịu buông tha, lợi dụng lòng bao dung mà lấp liếm hoặc diễn bày méo mó lịch sử. Đây là mối họa tiềm ẩn rất nguy hại cho chính tư duy lịch sử và của chính nền tảng giáo dục đất nước mai sau, chứ không riêng gì PGVN một khi lịch sử không được tôn trọng.

PGVN luôn sống thực và trung thành với nền tảng luân lý của mình, không sửa đổi, không xét lại nên không có lỗi với ai và đương nhiên không có kẻ thù. Vì vậy PGVN nói những cái gì mình thực có; thí dụ như“ĐẠO PHÁP và DÂN TỘC”. Cụm từ đó không hề thoát sanh từ sự thật khiên cưỡng, vấp ngã hay vì một xu thế bắt buộc nào đấy khi mà quá khứ đã làm tổn hại dân tộc, chà đạp truyền thống; mà chính nó đã đi từ lòng dân tộc lớn dậy, được dân tộc đùm bọc và cùng song hành tồn tại. Đất nước đau thương dưới gót giày xâm lược thì PGVN cũng oằn mình chia sớt số phận. Chính vì thế, cho đến ngàn năm sau PGVN vẫn hãnh diện nói lên điều đó cùng nhân thế.

Cho nên nói XIN ĐỪNG QUÊN biến cố mùa Pháp nạn 1963 chính là lời nhắn gởi đến những ai còn ở trong mặt tối này.

Cũng như Giáo sư Cao Huy Thuần, người viết trộm nghĩ, chẳng lẽ sự thật lịch sử và nhữngchuẩn mực đạo đức ở đời vốn là nghĩa vụ, là sự đương nhiên, nay lại phải đi Xinthiên hạ… Đừng Quên !

Có đấy! Cứ nhìn vào diễn trình 49 năm qua, những thế lực này vẫn còn cố công tìm đất sống và tiếp tục khơi dậy những đau thương mà lẽ ra PGVN phải là người luôn cao giọng. Và lẽ ra sự kham nhẫn, lặng thinh của PGVN để sự việc dần đi vào quá khứ, mở cửa tương lai luôn có lợi cho họ. Thế nhưng không ai có thể ngờ rằng chẳng những không nhìn ra điều đó mà họ còn ra sức tô vẽ lại bộ mặt tội ác từ những nấm mồ sâu chôn vùi tham vọng, khoát lên đó một bộ áo nhân sĩ-tài ba thao lược, đi ngược lại mong muốn của lẽ phải công bằng, xây dựng một tương lai hạnh phúc ấm no hơn ngày mai.

Như vậy, bài học lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta vẫn luôn mới nguyên ý nghĩa cảnh báo cho bất cứ thời điểm nào. Bài học ấy, có lẽ nên đặc biệt lưu ý từ thời cận đại, gần đây nhất; nó bắt nguồn từ phát súng đầu tiên của thực dân Pháp nả vào Đà Nẵng ngày 1 tháng 8 năm 1858, mở đường cho bước chân xâm lược và đô hộ đất nước này.

Để rồi tiếp theo đó, PGVN cũng lao đao cùng dân tộc, chùa chiền, tịnh thất, tài sản, đất đai bị phá hủy, san bằng.

Từ đó cho đến năm 1963, dù là giai đoạn cuối cùng còn rơi rớt lại của thế lực luôn sống và tiếp tay cho ngoại bang nhưng vẫm còn lầm tưởng rằng quyền lực nắm trong tay là sức mạnh tuyệt đối. Và như vậy PGVN lại một lần nữa đứng ra ngăn chặn sự cuồng vọng ấy dù máu lửa, nước mắt tuôn rơi, tạo nên một hình ảnh lịch sử mà muôn đời sau phải nhớ lại bằng sự ngưỡng mộ vô cùng tận.

Le_Phat_Dan_1964_goc_Nguyen_Hue_

Lễ Phật Đản 1964 (góc Nguyễn Huệ)

Le_Phat_Dan_1964_goc_Ham_Ngjhi-Hai_Quan_

Lễ Phật Đản 1964 (góc Hàm Nghi - Hải Quan)

Le_Phat_Dan_1964_Goc_Bach_Dang_truoc_le_dai_

Lễ Phật Đản 1964 (Góc Bạch Đằng trước lễ đài)

GDPT_Hinh_nghanh_nu_tai_le_Phat_Dan_1964_goc_phai_Nguyen_Hue_nhin_tu_phia_Le_dai_

GDPT Hình nghành nữ tại lễ Phật Đản 1964 (góc phải Nguyễn Huệ nhìn từ phía Lễ đài)

GDPT_Hinh_nghanh_nu_tai_le_Phat_Dan_1964_2__Goc_phai_Nguyen_Hue_nhin_tu_phia_Le_Dai_

GDPT Hình nghành nữ tại lễ Phật Đản 1964 (Góc phải Nguyễn Huệ nhìn từ phía Lễ Đài)


Viết bên tượng đài Bồ tát Thích Quảng Đức

Phật Đản 2556

DƯƠNG KINH THÀNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5601)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
09/04/2013(Xem: 5812)
Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
09/04/2013(Xem: 18636)
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM : Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng kinh học luật là điều chính yếu của người xuất gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe quí Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu tra luận nghĩa, mà quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy được trí tánh thông minh của Thầy......
09/04/2013(Xem: 5636)
Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này.
09/04/2013(Xem: 5280)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận-Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðét miền Nam nước Việt, sinh Năm Ất Hợi (1935). Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu.
09/04/2013(Xem: 5868)
Hòa thượng họ Võ, húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tư Tri Đức, hiệu Thiện Siêu, Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong môt gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Thân Phụ là C ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết. Hòa thượng là con trưởng trong một gia đình có 6 anh em: 3 trai, 3 gái. Người em kế cũng xuất gia, đó là cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Lâm Đồng; Trú trì chùa Phước Huệ - Bảo Lộc.
09/04/2013(Xem: 7072)
Thầy xuất thân trong một gia đình kính tín Tam bảo. Thầy là con út trong gia đình gồm 6 anh chị em. Cha là cụ Ông Lâm Sanh Thảo, một nhà trí thức yêu nước; Mẹ là cụ Bà Trần Thị Năm, một phật tử thuần túy và cũng là một người Mẹ mẫu mực đảm đang.
09/04/2013(Xem: 10092)
Thượng tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Mến. Thượng tọa có 06 anh em, 2 trai 4 gái, Ngài là anh cả trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 21569)
Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Ðức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
09/04/2013(Xem: 9507)
Thuở nhỏ lòng ưa cửa Ðạo, mến chuộng nếp áo phước điền, ngưỡng trông tịnh xá Kỳ Viên, tha thiết lòng cầu xuất tục. 16 tuổi, xuất gia học đạo chùa Tây An, Châu Ðốc trước tiên, gần quý Thầy hiền, trau dồi Phật tuệ, bang sài vận thủy, tu sửa đạo tràng; 27 tuổi, cầu thọ tam đàn. Kể từ đó tinh chuyên tu niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567