Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam

09/03/201212:14(Xem: 15412)
Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam

Bia_Tieu_su_danh_tang_1

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam 
Phật Lịch 2539 – 1995 
TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAMTHẾ KỶ XX 
Thích Đồng Bổn Chủ biên 

Lời Giới Thiệu

Nội dung tiêu chuẩn của Phật giáo là Tam Bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật bảo, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giáo chủ của đạo Phật; Pháp bảo, giáo pháp đã được đức Phật nói ra; Tăng bảo, đệ tử của Phật, nương vào lời dạy của Phật để tu hành, truyền trì mệnh mạch của giáo pháp. Tam bảo cũng còn là bản chất của Phật giáo. Phật bảo là biểu hiện cho mục đích tự giác, hoàn thành hai phần Bi Trí để trở thành nhân cách tối cao. Pháp bảo là khái niệm nhận thức về hết thảy chư pháp đều không tánh, duyên sinh, biểu hiện cho phần giải thoát khổ não, chuyển vào cảnh giới an lạc. Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ.

Tam bảo được hình thành từ ngày đức Phật còn tại thế, và vẫn được truyền trì phát triển, tồn tại liên tục ở thế gian cho tới hiện nay và mãi mãi sau này, đó là nương vào đạo tại nhân hoằng, nương vào sự nghiệp tuyên dương chánh pháp của lịch đại Tổ Sư. Do vậy, Tăng bảo được coi là thành phần trọng yếu, nhờ có Tăng hoằng mà Phật pháp được rộng mở trên khắp thế giới như ngày nay. Trong mỗi đất nước ở bất cứ nơi đâu, nếu có các bậc cao Tăng xuất hiện ở mỗi giai đoạn nào thì Phật pháp ở nơi ấy được phát triển hưng long. Thế nên, đạo Phật thịnh hay suy là căn cứ ở con người, không giới hạn nội qui, định thời chánh pháp, tượng pháp hay mạt pháp.

Đạo Phật được truyền vào Việt Nam, đã trải qua gần 2.000 năm lịch sử, qua nhiều thời đại có lúc thịnh lúc suy, đó chính là phản ảnh của các Cao Tăng có xuất hiện hay không xuất hiện. Để ghi lại những trang sử về sự nghiệp hoằng truyền Đạo pháp của các vị danh Tăng ấy qua các thời đại để khỏi bị thất lạc phai mờ trong quá khứ, và cũng để biểu thị những tấm gương trong sáng ấy phản chiếu cho đời hiện tại và tương lai, nên cuốn “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam” do Đại đức Thích Đồng Bổn chủ biên được xuất hiện, ra mắt độc giả lần đầu tiên tại Việt Nam.

Phật giáo Trung Quốc, ở đời Lương, cũng đã có bộ “Danh Tăng Truyện” của Sa môn Thích Bảo Xướng và “Cao Tăng Truyện” của Sa môn Thích Tuệ Cảo biên soạn. Tiếp đó là đời Đường lại có “Tục Cao Tăng Truyện” của Sa môn Thích Đạo Tuyên đã xuất hiện. Trong “Cao Tăng Truyện” của Tuệ Cảo, soạn giả có phê phán về chữ “Danh” và chữ “Cao” trong đề mục: “Nếu phần thực hành, hoạt động cao vời, thì trong cao tất có danh; còn có danh, vị tất đã có cao”. Do vậy mà soạn giả dùng chữ “Cao” thay cho chữ “Danh”.

Cao Tăng Truyện của Tuệ Cảo và Tục Cao Tăng Truyện của Đạo Tuyên, cả hai soạn giả đều trình bày về nội dung căn cứ theo 10 khoa, để biểu hiện thích ứng cho từng nhân vật. 10 khoa là: 1- Dịch kinh, 2- Nghĩa giải, 3- Tập Thiền, 4- Minh luật, 5- Hộ pháp, 6- Cảm thông, 7- Di thân (cốt) 8- Đọc tụng, 9- Hưng phúc, 10- Tạp khoa. Hiệu quả của các khoa Dịch kinh, Nghĩa giải, Tập thiền, Minh luật là cơ sở tu đạo; các khoa Hộ pháp, Cảm thông, Di thân, Đọc tụng, Hưng phúc, Tạp khoa là sự nghiệp tiếp vật lợi sinh.

Cuốn “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam”, từ Danh Tăng được dùng trong đề mục, chữ “Danh” đồng nghĩa với chữ “Cao” nên Danh Tăng ở đây cũng đồng nghĩa là Cao Tăng, không giống với ý nghĩa phân tích của Sa Môn Tuệ Cảo. Nội dung cuốn “ Tiểu Sử Danh Tăng” này, được ghi chép gồm 100 vị Danh Tăng Việt Nam và 4 nhân vật Cư Sĩ tiêu biểu, đã viên tịch ở thế kỷ thứ XX này. Trong mỗi tiểu sử, Ban Biên Tập đều ghi đầy đủ: Danh hiệu, tục tính, nơi sinh, hành trạng sự nghiệp tu hành, nơi tham học, hoằng đạo và nơi chùa trụ trì, ngày tháng năm thị tịch, tuổi thọ, hạ lạp, tháp hiệu, và trình bày tổng quát về sự nghiệp hoằng đạo, truyền đạo, không phân tích thành từng khoa như trên, để người đọc và kê cứu tự tìm hiểu về khả năng tuyên dương giáo pháp của mỗi vị.

Đây là tác phẩm viết về “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam” lần đầu tiên được ra mắt độc giả. Tuy nhiên, việc hoàn thành được tác phẩm này không phải là việc làm dễ dàng, mà soạn giả cùng với Ban Biên Tập và rất nhiều cộng tác viên nhiệt tâm đã phải tốn bao công sức, bao cố gắng nghiên cứu sưu tầm khắp đó đây trong cả nước. Nay xin chân thành giới thiệu cuốn “Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam” tới Tăng Ni nhị bộ chúng, các hàng Phật tử, và các nhà Thiện tri thức.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày mồng một, tháng Quí Đông, năm Giáp Tuất (01-01-1995).

Hòa Thượng THÍCH THANH KIỂM


Bia_Tieu_su_Danh_Tang_2_webÝ KIẾN VỀ BỘ TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAM

Phật Giáo Việt Nam cùng với vận mệnh đất nước đã trải qua bao hưng suy thăng trầm của lịch sử. Nếu như Nước nhà thời nào cũng có anh hùng, thì Phật giáo giai đoạn nào, nơi đâu cũng có Danh Tăng dựng Đạo giúp nước. Đó là những tấm gương sáng giá góp phần tạo nên lịch sửđặc biệt là trong giai đoạn cận và hiện đại với công cuộc chấn hưngvà phát triển Phật giáo song song với sự vươn lên của dân tộc.

Công lao của các bậc Cao Tăng tiền bối, các vị Sứ giả Như lai, những Danh Tăng hộ quốc kiên trì giữ Đạo, tinh tiến tu hành, đã được sưu tầm qua công trình biên soạn bộ Tiểu sử Danh Tăng Việt Nam thế kỷ XX này. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo và còn một số tiểu sử Danh tăng còn thiếu cần sưu khảo thêm, tác phẩm này cũng đã cô đọng được tất cả nét chủ yếu của từng cuộc đời riêng lẻ, từng sự nghiệp đặc thù ở mỗi hạnh nguyện cá biệt để đúc kết thành bối cảnh lịch sử cả một giai đoạn. Bộ sách đã phản ánh được bao nhân cách, chí hướngtư tưởngcó giá trị cho chúng ta học hỏi noi gương. Đó là sự đóng góp có ý nghĩanhất của tác phẩm vào kho báu Văn hóa - lịch sử của Phật Giáo Việt Nam.

Trưởng Ban Văn Hóa Trung Ương GHPGVN 
Cư sĩ Võ Đình Cường  
 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam 
Phật Lịch 2539 – 1995 
TIỂU SỬ DANH TĂNG VIỆT NAMTHẾ KỶ XX - TẬP I 
Thích Đồng Bổn Chủ biên 

Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành 




CỐ VẤN CÔNG TRÌNH:

HÒA THƯỢNG THÍCH THANH KIỂM. 
THƯỢNG TỌA THÍCH TRÍ QUẢNG. 
THƯỢNG TỌA THÍCH GIÁC TOÀN. 
THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN NHƠN. 
CƯ SĨ VÕ ĐÌNH CƯỜNG.

CHỦ BIÊN:

- THÍCH ĐỒNG BỔN. 
 

NHÓM BIÊN SOẠN:

Thích Trung Hậu - Thích Đồng Bổn - Thích Bảo Nghiêm - Bửu Chánh - Danh Sol - Nguyễn Đình Tư - Trương Ngọc Tường - Lê Tư Chỉ - Trần Hồng Liên - Phạm Thị Bạch Tuyết - Nguyễn Văn Du. 
 

HÌNH ẢNH : 

Võ Văn Tường, Thích Đồng Bổn, Nguyễn Bá Triết, 
Võ Văn Bình, Thích Hải Ấn, Thích Nguyên Phước, 
Vạng Anh Việt, Đinh Tấn Lễ. 
 

CỘNG TÁC VIÊN CÔNG TRÌNH

 01. HÒA THƯỢNG THÍCH HIỂN TU 
 02. HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỔNG QUÁN (QUI NHƠN) 
 03. HÒA THƯỢNG THÍCH QUANG KHẢI 
 04. THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN LẠC 
 05. THƯỢNG TỌA THÍCH MINH THÀNH 
 06. THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN THÀNH (HÀ TÂY) 
 07. THƯỢNG TỌA THÍCH HẢI ẤN (HUẾ) 
 08. ĐẠI ĐỨC THÍCH GIA QUANG (HÀ NỘI) 
 09. ĐẠI ĐỨC BỬU CHÁNH (ĐỒNG NAI) 
10. ĐẠI ĐỨC THÍCH LỆ HƯNG (ĐỒNG THÁP) 
11. ĐẠI ĐỨC THÍCH GIÁC THIỆN (TIỀN GIANG) 
12. ĐẠI ĐỨC THÍCH LỆ TRANG 
13. ĐẠI ĐỨC THÍCH PHƯỚC MINH (TRÀ VINH) 
14. ĐẠI ĐỨC THÍCH QUẢNG TÙNG (HẢI PHÒNG) 
15. ĐẠI ĐỨC THÍCH MINH THÔNG (NHA TRANG) 
16. THƯỢNG TỌA THÍCH NGUYÊN PHƯỚC (BÌNH ĐỊNH) 
17. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN TOÀN (ĐÀ NẴNG) 
18. ĐẠI ĐỨC THÍCH THANH GIÁC (HẢI PHÒNG) 
19. ĐẠI ĐỨC THÍCH TÔN THẬT 
20.ĐẠI ĐỨC THÍCH MINH THIỆN (LONG AN) 
21. ĐẠI ĐỨC THÍCH MINH HIỀN (HÀ TÂY) 
22. ĐẠI ĐỨC THÍCH MINH LÝ 
23. ĐẠI ĐỨC THÍCH ĐỒNG ĐỊNH 
24. ĐẠI ĐỨC THÍCH TRÍ MINH (TRÀ VINH) 
25. SƯ THẦY THÍCH ĐÀM ÁNH (HÀ NỘI) 
26. NI SƯ THÍCH NỮ ĐÀM HUỆ 
27. SƯ CÔ THÍCH NỮ MINH TÂM 
28. SƯ CÔ THÍCH MINH TÂM (HÀ NỘI) 
29. SƯ CÔ THÍCH ĐÀM LAN (HÀ NỘI) 
30. SƯ CÔ THÍCH NỮ MỸ ĐỨC (NINH THUẬN) 
31. TIẾN SĨ PHAN LẠC TUYÊN (CỐ VẤN
32. ÔNG HUỲNH NGỌC TRẢNG 
34. CƯ SĨ QUẢNG TIẾN 
35. CƯ SĨ PHƯỚC HỮU 
36. CƯ SĨ TÂM QUANG





pdf-icon
Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam tập 1 - Thích Đồng Bổn
Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam tập 2 - Thích Đồng Bổn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13520)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7683)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18595)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5269)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7300)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4368)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17186)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8191)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4656)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5434)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567