Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông: Nước Phật xuân không cùng

13/10/201115:56(Xem: 5705)
Trần Nhân Tông: Nước Phật xuân không cùng

TRẦN NHÂN TÔNG:

NƯỚC PHẬT XUÂN KHÔNG CÙNG
Nguyễn Thế Đăng

“Lúc này ngài lại đi khắp các ngọn núi.

Bảo Sát thưa rằng, ‘Tôn đức tuổi đã cao mà cứ xông pha sương tuyết thì mạng mạch Phật giáo sẽ thế nào?’

Thượng hoàng đáp : ‘Thời ta đã đến, vì thế ta muốn làm kế lâu dài mà thôi’.

Ngày mồng 5 tháng mười, gia đồng của Công chúa Thiên Thụy lên núi tâu : ‘Công chúa Thiên Thụy mệt nặng, xin gặp Điều Ngự để chết’. Vua nghe xong, trầm ngâm nói: ‘Cũng là thời tiết thôi’.

Rồi chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo với ngài… Ngày 15 tháng mười, sau khi dặn dò xong xuôi, ngài lại quay về núi. Ngủ đêm ở chùa Báo Ân của Siêu Loại.

Tờ mờ sáng ngài đi đến chùa thôn Cổ Châu và tự tay đề lên vách bài kệ:

Số đời một hơi lặng
Tình trần hai biển trăng
Cung ma chi sá kể
Nước Phật xuân không cùng
(Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân)”

Đây là bài thơ cuối cùng của vua, vì sau đó ngày 18 ngài lên núi Ngọa Vân, đến ngày 1 tháng 11 thì an nhiên ra đi.

Điều trước tiên chúng ta ghi nhận là không có một vị vua nào, không có một thiền sư nào của Việt Nam mà những ngày cuối cùng, những giờ phút cuối cùng được sử sách ghi lại một cách chi tiết như ông. Có phải đời ông gắn bó quá nhiều với lịch sử nên lịch sử cũng công bằng mà không sơ sài giản lược với ông?

Bài thơ cuối cùng. Đó là những lời nói cuối cùng ở đỉnh cao nhất của một cuộc đời của mình, đang sắp sửa nhảy vào vực thẳm ngăn cách đời này với đời khác, hay vực thẳm ngăn cách đời này với cái Vô Hạn. Thế nên, ít ra, nó phải nói lên tâm thức mình khi ở đỉnh cao nhất của đời mình. Huống gì, việc cố tình viết lên vách chùa, đây là một gửi gắm, một thông điệp cho những đời sau.

Ở đây chỉ là một cố gắng nghiên cứu, học hỏi, bắt chước, để sống là theo ngài. Để làm được việc đó, chúng ta cố gắng tìm ra những gì là thực chất, là nội dung và động cơ của đời ngài. Có lẽ đó là cái ngài muốn để lại cho đời sau, chứ không phải lịch sử của cuộc đời ngài và thời đại ngài, dù chúng có vinh quang đến mấy, vì lịch sử thì không thể nào được lập lại.

Thế số nhất tức mặc. Số đời là một hơi thở tịch lặng. Một cuộc đời với nhiều biến cố, vừa là một nhà vua, một nhà chiến lược, một nhà chính trị, một nhà quân sự ngoại giao, lại có trách nhiệm như một quốc sư, việc gì của ông cũng để lại dấu ấn lớn trong lịch sử, thế mà cuộc đời ấy với ông chỉ là một hơi thở. Hơn nữa, một hơi thở im lặng, một hơi thở tịch diệt. Một hơi thở của thiền định, của chánh định.

Một cái tâm với nhiều hoạt động như vậy mà vẫn tịch diệt. Với nhiều cái sanh ra như vậy mà vẫn vô sanh. Sống với nhiều sự việc như vậy mà vẫn là vô sự. Tâm vô sự bởi vì tâm sanh tử đã “nhàn”, đã “mỏi”, đã “lão”, chỉ còn tánh Không ngự trị, chỉ còn một chánh định của tánh Không:

Ai buộc mà đi cầu giải thoát
Chẳng phàm đâu phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng lão
Y cũ am mây một sập thiền
(Sơn phòng mạn hướng)

Có thể nào nhiều việc, rất nhiều việc mà nơi mỗi công việc đều là một giải thoát? Do đó là người vô sự. Điều này Kinh Kim Cươngtrong hệ thống Bát Nhã, một kinh chính yếu của truyền thống Phật giáo Việt Nam đã chỉ ra. Thiền tông cũng chỉ ra. Ông là một thiền sư, lại là người mở đầu một dòng Thiền, ông hẳn phải thân chứng cái tâm Không vô sự đó, cái tâm kim cương không ô nhiễm đó.

Một cái tâm đã đạt đến cái bản tánh của nó là tánh Không thì ‘Phướn cũng chẳng động, gió cũng chẳng động”, như lời của Lục Tổ Huệ Năng nói trong phẩm Tựa của Pháp Bảo Đàn Kinh.

Còn đây là lời của ông về những việc làm của mình:

Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi
Quách nhiên bất thức, tai ngu nghe ắt còn vang

(Cư Trần Lạc Đạo Phú, hội thứ 9).

Bài kệ trong phần chú thích của Cư Trần Lạc Đạo Phú có thể tóm tắt “tâm địa”của ông, “một hơi thở lặng” của ông, “một sập thiền”của ông:

Tất cả muôn pháp
Đều từ tâm sanh
Tâm không chỗ sanh
Pháp không chỗ trụ.
Nếu đạt tâm địa
Ứng dụng vô ngại
Không gặp thượng căn
Thận trọng chớ nói.

Chính vì “đạt tâm địa, tâm không chỗ sanh. Pháp không chỗ trụ” mà cuộc đời ông chỉ là sự “ứng dụng vô ngại” của tâm ấy. Cuộc đời ông là sự khai triển của tự do vô ngại của tánh Không vào trong thời cuộc ông đang sống. Sự bất biến tùy duyên ấy là một hơi thở tịch lặng, một hơi thở tịch lặng của tánh Không.

Thời tình lưỡng hải ngân. Tình trần hai biển trăng. Lưỡng hải ngân, theo chú thích trong Thơ Văn Lý Trần của Viện Văn Học, 1989, là hai con mắt. Các dịch giả khác đều dịch với ý là hai con mắt. Ở đây dịch ”hai biển ngân” là “hai biển trăng”.

Thế và thời điêu để chỉ đời, trần gian. Nhưng thế ám chỉ không gian nhiều hơn. Thời thì chỉ thời gian nhiều hơn.

Tình trần hai biển trăng.Cuộc đời, thế thời lên xuống trôi qua. Với biết bao biến cố, nhưng tất cả được nhìn bằng đôi mắt đầy ánh sáng, hai biển trăng.

Đôi mắt đầy ánh sáng là đôi mắt của “tính sáng”. “Tính sáng” được nói đến trong 3 hội đầu trong Cư Trần Lạc Đạo Phú gồm 10 hội. Bảy hội sau không còn dùng hai chữ tính sáng, nhưng dù dùng những chữ khác thì vẫn cùng một nghĩa: huệ nhật, tính thức, tính sáng soi, vô tâm, lòng trong sạch, lòng minh kính, lửa giác ngộ, thánh trí, Bồ đề thêm sáng… Nhờ đôi mắt của tính sáng, đôi mắt là tính sáng ấy mà tình trần trở nên thanh tịnh, trở nên giải thoát khỏi nhân duyên sanh diệt:

Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên.
Dồi cho vằng vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.
(Hội 6)

Nhờ đôi mắt tính sáng này mà thấy, mà quán thấy lời dạy trong bài kệ chấm dứtKinh Kim Cương: ”Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt, ảnh; như sương cũng như chớp; hãy nên quán như thế”.

Ông ở trong tính sáng ấy nên ông thấy:

Cốc hay thân huyễn
Chẳng khác phù vân
Vạn sự giai không
Tựa dường bọt biển.
(Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca).

Tính sáng này là ánh sáng căn bản, ánh sáng bổn nguyên, là Tịnh Quang (Clear Light, Skt:abhasvara, TT: od- gsal) của Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng như hiện nay chúng ta thấy. Quả thật, Phật giáo dù ở đâu, dù có thể chẳng hề tiếp xúc liên lạc với nhau, dù có những phương tiện tu hành khác nhau vẫn luôn luôn đi đến một thực tại tối hậu, đi chung một hướng, một đại đạo, một Phật đạo vậy.

Chính nhờ đôi mắt hai biển trăng này, đôi mắt của tính sáng này mà nhìn “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).Chính đôi mắt hai biển trăng này mà thấy Nước Phật: “Nước Phật xuân không cùng”.

Ma cung hồn quản thậm.Phật quốc bất thắng xuân. Cung ma chi sá kể, cung ma chẳng ‘nhằm nhò’ gì, cung ma không còn nữa. Còn nước Phật thì xuân không cùng, xuân khôn xiết, xuân ‘hết sảy’. Sanh tử (cung ma) không còn bóng dáng, tất cả chỉ một vị Niết Bàn.

Đây là kết quả tất nhiên của hai câu đầu. Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sống có ý nghĩa là không tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng. Đời sống tự nó là giải thoát, là Niết Bàn.

Chúng ta cần lưu ý đều này nữa. “Nước Phật” ở đây không chỉ có nghĩa là Niết Bàn thanh tịnh tịch diệt mà ông tự chứng, mà đó còn là nước Đại Việt mà ông trực tiếp lãnh đạo và trang nghiêm. Nước Phật đây là một nước Đại Việt được Phật hóa từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong như hai câu thơ khi ông chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, trở lại Thăng Long:

Xã tắc hai lần phiền ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Chúng ta thấy câu đầu “Số đời một hơi thở lặng” nói đến sự tịch diệt của tâm và do đó của tất cả các pháp. Đấy là nghĩa Tịch của tâm.Câu hai nói đến”tính sáng soi” của tâm và của tất cả các pháp. Đấy là nghĩa Chiếu của tâm. Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu. Tâm là Tịch Chiếu.

Tâm gồm hai phương diện Tịch và Chiếu, dùng những chữ tương đương là Chỉ và Quán, hay Định và Huệ (xem phẩm Định Huệtrong Pháp Bảo Đàn Kinh). Thiền là sự việc Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời, Định Huệ đồng thời. Và vì Tịch Chiếu đồng thời, Chỉ Quán đồng thời, nên Thiền tương ưng với bản tâm vốn Tịch Chiếu viên mãn, vốn Chỉ Quán viên mãn, vốn Định Huệ viên mãn. Quả của Thiền là cái tâm Tịch Chiếu viên mãn này:

Cái Tịch Chiếu vốn tự nhiên của bản tâm cũng tức là cái Chân Không Diệu Hữu của Đại thừa.

Tịch là phương diện bên trong. Chiếu là phương diện bên ngoài. Kết hợp và nâng cấp cả hai cho đến viên mãn hợp nhất là con đường Đại thừa:

Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm”
(Hội thứ 6)
“Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc”
(Hội thứ 8)

Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập: tích tập trí huệ (nội) và tich tập phước đức (ngoại). Cũng chính nhờ tích tập trí huệ mà đắc Pháp thân; và tích tập phước đức mà có Báo thân và Hóa thân. Con đường Bồ tát là con đường đầy đủ cả “nội và ngoại”, đầy đủ huệ và phước:

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc (biết)”

(Hội thứ 8)

Chúng ta thấy Trần Nhân Tông là người “Phúc tuệ gồm no”. Con đường Điều Ngự Giác Hoàng đã đi là con đường Bồ tát hạnh. Ngài đã phụng sự không mệt mỏi cho xã hội, cho quốc gia dân tộc và cho chúng sanh cho đến hơi thở cuối cùng.

Sự phụng sự không mệt mỏi đó y cứ trên nền tảng trí huệ, trên nền tảng Thiền:

Biết vậy!
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương,
Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
(Hội 2)
Vậy mới hay
Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân quên gốc nên ta tìm Bụt
Nếu biết rồi chỉn Bụt là ta.
(Hội 5)

Chúng ta cần học tập, sống theo Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Chúng ta cần kế thừa Thiền của Trần Nhân Tông. Thiền ấy đặt hai chân lên cuộc đời cụ thể này bằng Bồ tát hạnh. Bởi vì có đi trên con đường Thiền với Bồ tát hạnh, chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình và đóng góp phần mình làm cho xã hội sống được một đời sống có ý nghĩa.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2021(Xem: 7690)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
23/04/2021(Xem: 4838)
Hoà thượng Thích Từ Hương thế danh là Nguyễn Mạnh Trừng. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1928 tại thôn Vĩnh An, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.Trong một gia đình phú nông. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tiêm. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chai pháp danh Nhật Cang. Từ lúc ra đời cho đến năm 1954, Hoà thượng ở tại quê nhà theo học tiểu học và sinh sống tại địa phương.
23/04/2021(Xem: 4654)
Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành. Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.
11/04/2021(Xem: 9039)
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Kính thưa tất cả quý Phật tử trong và ngoài nước, Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng xin trân trọng kính báo: Thượng Toạ Thích Tuệ Giác, Hội trưởng Hội Thiền Học Việt Nam Hải Ngoại, Viện trưởng Tổ Đình Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Đã viên tịch vào lúc 4:30 chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 4 năm 2021 (nhằm 29 tháng 2 năm Tân Sửu) Tại Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Quận hạt San Diego, CA, Hoa Kỳ. Trụ thế 62 năm, 31 Hạ Lạp Chương trình Tang Lễ của Thượng toạ Thích Tuệ Giác sẽ được kính báo trong thời gian sớm nhất. Chúng con nhất tâm xin cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức và mời gọi quý Phật tử cùng chung lòng cầu nguyện. Thay mặt BTC Tang Lễ xin được trân trọng kính báo. Tỳ kheo Thích Tuệ Tỉnh
31/03/2021(Xem: 4747)
Trễ hẹn trong tang lễ, rồi cúng 21 ngày và 49 ngày cố nhạc sĩ Hằng Vang ( 1936 – 2021 ), một số Anh Chị em cựu huynh trưởng giữ đúng lời hứa, rất uy tín, lòng tự dăn lòng rằng nhất định sẽ họp mặt để cùng nhau thắp cho vị nhạc sĩ nén hương tưởng nhớ, tri ân những dòng nhạc mà phần lớn đã theo chân nhiều thế hệ Gia Đình Phật Tử ( GĐPT ) và các đoàn thể thanh thiếu niên Phật giáo, nối tiếp nhau cho đến tận hôm nay. Và ngày đó phải là ngày cúng chung thất 49 ngày, nhất định không hẹn xa xăm nửa. Sau khi loại trừ nhiều trở ngại, cộng vào nh74ng thuận duyên chung, tất cả đã chọn ngày chủ nhật 21/03/2021 9 nhằm ngày mùng 9 tháng hai năm Tân Sửu vừa rồi
10/03/2021(Xem: 5006)
Cố Hòa Thượng thế danh Đặng Hữu Tường, pháp húy Nguyên Phước, tự Quang Thể, hiệu Đạt Minh; nối pháp đời 44 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Liễu Quán. Ngài lâm thế ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922) tại làng An Hải, quận III (nay là phường An Hải, quận Sơn Trà), thành phố Đà Nẵng; chánh quán làng Quảng Lăng, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Văn Vịnh (tức Nuôi) và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ớt. Ngài là trưởng nam trong một gia đình có năm anh em gồm ba trai và hai gái. Năm lên 9 tuổi, thân phụ qua đời, từ đó mẫu thân một mình tần tảo nuôi con. Trong thời gian này, Ngài được mẫu thân gởi đến Thầy Tư Tri (Như Tín) – trụ trì chùa An Hải lúc bấy giờ – nhận cho nhập Chúng tu học.
10/03/2021(Xem: 8385)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
01/03/2021(Xem: 27016)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ 20 phút ngày Thứ Bảy 22/02/2020 nhằm ngày 29/01 Âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2563 tại Chùa Từ Hiếu, Phường 1, Quận 8, Sài Gòn. Trụ thế: 93 năm. Chương trình tang lễ sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Đại Lão Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Ba để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
23/02/2021(Xem: 5284)
Tin buồn Cư sĩ Đỗ Đình Đồng; Pháp danh: Chơn Trí đã an nhiên trút hơi thở tại Hoa Kỳ vào lúc 01 giờ 02 phút khuya ngày 17 tháng 2 năm 2021 (mồng 6 tháng giêng năm Tân Sửu). Hưởng thọ 76 xuân. Trong một cơn bạo bệnh, ông bị máu đông trong động mạch phổi. Bác sĩ cho ống thông vào để phá máu đông nhưng tim ông đã ngừng đập khiến ông phải thở bằng máy và đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng sau một ngày một đêm trên máy thở. Ông ra đi đột ngột khi đang dịch dang dỡ một quyển sách khác về giáo lý đạo Phật. Ông thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, không biểu hiện sự đau đớn, và có hiền thê, hiếu tử hiền tôn bên cạnh niệm Phật cầu nguyện.
03/02/2021(Xem: 20121)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]