Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Ân Thầy

07/09/201310:59(Xem: 3896)
Niệm Ân Thầy
HT_Minh_Tam (3)



VG 197 (PV, 25.8.2013)
 
Niệm Ân Thầy
 Kính dâng Giác Linh Hòa Thượng Thích Minh Tâm
 

 

                      ● Nguyên Hạnh HTD



Khoa Tu Au Chau

 

 

    Kính bạch Thầy,

     Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng!

 

     Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!

 

     Chúng con được biết dạo này Thầy không được khỏe nên mỗi lần Thầy đến hội trường; nghe Thầy thăm hỏi vài câu, chúng con đều hoan hỷ vỗ tay chào và cảm tạ Thầy rất nồng nhiệt. Con vẫn an tâm nghĩ rằng Thầy chỉ mệt và Thầy sẽ khỏe lại như những lần trước, thế thôi. Rồi Thầy đã thăm hỏi và tặng quà cho các cháu Oanh Vũ và còn hẹn với hàng Phật tử khóa Tu học thứ 26 sang năm sẽ được tổ chức tại Thụy Sĩ nữa!

 

     Trở về nhà. Những hình ảnh, những âm thanh của 10 ngày qua cùng các bạn đồng tu được các Chư Tôn Đức Tăng Ni dạy bảo, trao truyền giáo lý của Chư Phật vẫn còn vang vọng, đậm nét trong lòng con. Những lời thăm hỏi, nhắn nhủ của Thầy qua micro vẫn còn vương vấn, bàng bạc trong không gian vậy mà chỉ vài ngày sau, Thầy đã vĩnh viễn ra đi!

 

      Là con nhà Phật, con hiểu rõ sự vô thường của thế gian và biết rằng ai cũng chịu quy luật vận hành sinh tử chi phối. Nhưng trước sự mất mát quá lớn lao và đột ngột này, con vẫn không sao tránh được sự ngậm ngùi đau xót, vẫn không ngăn được những dòng nước mắt tuôn trào!

 

     Kính Bạch Thầy,

     Trên quê hương tạm dung, con không đủ duyên lành được thường xuyên gặp gỡ và được trực tiếp nghe Thầy giảng Phật Pháp nhiều, nhưng từ nơi xa xôi này, con luôn luôn kính ngưỡng Thầy- Người có một đời sống tu hành thanh khiết. Đức hạnh của Thầy là tấm gương sáng cho hàng Phật tử chúng con mong cầu được noi theo. Bao nhiêu năm qua những sinh hoạt hoằng dương chánh pháp của Thầy xuyên suốt từ các nước Đông, Bắc Âu đến các tiểu bang Mỹ, Úc Châu xa xôi cùng những công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo mà Thầy đã không quản ngại vất vả khó khăn thực hiện suốt cả cuộc đời Thầy.

 

     Phật sự đa đoan, việc đời chồng chất nhưng Thầy vẫn không một chút sờn lòng. Những việc làm đầy nhân ái không ngừng nghỉ của Thầy đã khơi dậy trong lòng chúng con trọn một lòng kính phục, một niềm biết ơn trân trọng và sâu sắc!

 

     Nhưng thời gian có chờ đợi ai, năm tháng trôi qua, Thầy ngày một lớn tuổi, đã đến lúc lực bất tòng tâm, cọng thêm sự lo lắng cho ngôi chùa mới chưa hoàn thành đã làm cho sức khỏe của Thầy suy yếu đi rất nhiều. Tuy vậy sinh hoạt của Thầy vẫn như không thay đổi - chưa kể mỗi lần vào bệnh viện Thầy thường hay xin phép về vì nóng lòng công việc còn quá bề bộn. Thầy vẫn tiếp tục con đường hoằng pháp qua những nước có người Việt sinh sống. Thầy vẫn một lòng kêu gọi đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào ruột thịt và sự tự do tín ngưỡng cho quê nhà.

 

     Thầy ơi! Lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay ngạo nghễ trên nóc trường Đại học Turku đã làm cho con quên hết nhọc nhằn đường xa khi mới bước vào trung tâm Tu học. Nơi nào có sự hiện diện của Thầy là nơi đó không thể thiếu lá cờ thân yêu này được!

     Nhìn từ bên ngoài, tuy có thấy Thầy gầy đi nhưng ánh mắt vẫn ấm áp, giọng nói Thầy vẫn từ tốn, ôn hòa. Thầy vẫn quan tâm đến mỗi đạo hữu, Phật tử khi có dịp gặp gỡ. Vì vậy, khi nghe tin Thầy viên tịch, không ai khỏi bàng hoàng đau xót!

 

     Thầy ra đi rồi! Từ đây mỗi mùa tu học hằng năm, chúng con không còn được chiêm ngưỡng từ nhan, và được nghe giọng nói trầm ấm của Thầy nữa! Bằng lời nói thân mật giản dị cố hữu ấy; Thầy đã dạy chúng con về hiếu đạo; Thầy đã dạy chúng con về bổn phận làm người, phương cách tu hành để chúng con có thể đến được bến bờ giải thoát.

 

    Ở chùa chúng con, thỉnh thoảng mới được cái vinh hạnh thỉnh Thầy sang. Thầy đã ban cho chúng con những thời pháp tuyệt vời, đầy ý nghĩa. Con còn nhớ một buổi cầu siêu được Thầy quang lâm chứng minh, tới phần cúng cơm cho các anh linh có hậu tại chùa, nghe giọng trầm buồn của Thầy trong đoạn: 

 

     Phụ mẫu ân thâm chung hữu biệt

     Phu thê nghĩa trọng giã phân ly

     Nhơn tình tợ điểu đồng lâm túc

     Đại hạn lai thời các tự phi.

 

     Con không sao ngăn được lòng thương cảm, nước mắt dâng tràn! Vâng, vạn hữu của thế gian đều do nhân duyên hợp thành. Mà đã có hợp thì phải có tan một khi duyên đã tận: 

 

     Cha mẹ ơn sâu còn có biệt

     Vợ chồng nghĩa nặng cũng phân ly

     Nhơn tình như thể chim chung tổ

     Đại nạn, con nào con nấy bay.

 

     Từ ngày được học Phật pháp, dù con đã biết cuộc sống rất mỏng manh tạm bợ, nhưng lần này sự ra đi của Thầy như thêm một tiếng chuông cảnh tỉnh con. Mới thấy đó rồi mất đó, chỉ trong chớp mắt, trong khoảnh khắc mọi việc đã đổi thay một cách nhanh chóng không thể nào ngờ được!

 

     Trong sự kính thương, tiếc nuối khôn cùng; trước sự ra đi vĩnh viễn của Thầy, con xin nguyện tiếp tục trau giồi đời sống tâm linh mỗi ngày một vững tiến hơn để không phụ lòng Thầy vẫn hằng mong muốn cho các hàng đệ tử chúng con sớm thoát vòng mê muội, tìm về được với cái tâm của chính mình.

 

     Chúng con thành kính nguyện cầu Giác linh Thầy sớm cao đăng Tây Phương Cực Lạc quốc.

 

     Chúng con đau đớn, nghẹn ngào cúi đầu đảnh lễ Thầy lần cuối!

 

     Cúi mong Thầy từ bi chứng minh nạp thọ cho lòng chí thành của con.

 

                                  (Tháng 8.2013)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6730)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5385)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4879)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5284)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6106)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5945)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9355)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5016)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5314)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
21/09/2012(Xem: 9268)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Thân hình Ngài có những đặc điểm khác thường, nhất là có màu vàng, nên được vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567