Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm lên Ôn

17/04/201301:51(Xem: 5017)
Cảm niệm lên Ôn


HT. Thich Tri Chon

CẢM NIỆM LÊN ÔN


Thích Nữ Hạnh Thanh

       Kính Giác linh Ôn thượng Trí hạ Chơn, chứng tri,

       Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ;  nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ;  đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp hiệu quý Ngài. Dó đó, quý Ôn Trúc Lâm (Thích Mật Hiển), Ôn Linh Quang (Thích Mật Nguyện), Ôn Từ Đàm (Thích Thiện Siêu), Ôn Giám Đốc hay Ôn Già Lam(Thích Trí Thủ), Ôn Bảo Quốc (Thích Thanh Trí), Ôn Phổ Quang (Thích Chánh Pháp), Ôn Hiếu Quang (Thích Thiện Trí), v.. v... và, còn nhiều nữa. 
       Ra hải ngoại, Ôn có hạnh nguyện và rải tâm từ để bảo trợ quý thầy đệ tử Ôn Linh Mụ ra hoằng hóa nhiều, nên quý Thầy Cô thường gọi là môn phái Linh Mụ vậy thôi. Thật tình, con ở quê nhà chỉ nghe mang máng về Ôn. Khi cra hải ngoại và được thầy con là Hòa thượng Tín Nghĩa bảo trợ từ trại tỵ nạn Hong Kong về chung lo Phật sự tại Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại, con mới chính thức được diện kiến hầu Ôn bốn lần. Và cũng từ đó, mỗi lần Ôn điện thoại qua gặp thầy con, thì con là người hầu chuyện với Ôn nhiều trước khi chuyển máy; cũng được Ôn hướng dẫn nhiều điều bổ ích cho hàng hậu học không những cho riêng con mà quý Tăng Ni cùng trang lứa với con, nhất là vấn đề thừa hành Phật sự ở xứ người. Qua hình dáng độ sanh của Ôn trên mấy chục năm tại xứ người, cũng là bài pháp không lời nhưng vô giá. Bây giờ Ôn đã quảy gót đăng trình ra về nơi cõi Phật, thì con mới thấy là mình đã đánh mất những bài pháp ngắn gọn cao quý qua điện thoại. Hồi đó con lại không ghi, ngày nay con không nhớ hết.
       Kính Giác Linh Ôn,
       Nỗi buồn trong con chưa nguôi là Sư phụ của con, Ni trưởng Thích nữ Bảo Nguyệt, Viện trưởng Ni viện Diệu Giác, quận Thủ Thiêm - Sài Gòn và cũng là sư đệ của Ôn, vừa xả báo thân chưa đầy 4 tuần, thì nay Ôn lại tiếp tục ra đi và đi xa mãi.
       Trước khi về chịu tang Sư phụ, con được đọc văn thư do Hòa thượng Phó chủ tịch Nội vụ Điều hành ký là xin quý tự viện trong Giáo hội thường xuyên dâng lễ cầu an cho quý ngài: Trí Chơn, Hạnh Đạo và Nguyên Lai.
       Sau khi vừa cúng tuần thứ ba của Sư Phụ con xong, Thầy con gọi về hỏi :
       - Con làm gì đó ?  Khỏe không ?
       Con thưa :
       - Chúng con vừa tụng kinh Dược Sư để cầu an cho Ôn Trí Chơn.
       Thầy con bảo :
       - Thôi con, đổi vé gấp để qua chịu tang Ôn Trí Chơn. Ôn mới thuận tịch lúc 6 giờ chiều, thứ Hai, ngày 14 tháng 3 tại chùa Bát Nhã. 
       Con vội vàng đổi vé gấp và qua ngay để kịp chịu tang Ôn. Cũng may là còn chỗ trống và con cũng qua kịp để hầu Ôn trong những ngày nhục thân của Ôn quàn tại chùa Bát Nhã. Bây giờ con ôn lại những gì con học được ở Ôn mà đặc biệt là bốn lần ở Từ Đàm.
       1.- Ôn về dự Đại lễ Khánh thành Tân chánh điện Từ Đàm và cũng là Đại hội Thường niên lần thứ hai, nhiệm kỳ 2 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa Đạo :
       Trong hàng Giáo phẩm cao cấp của Giáo hội, Ôn và Ôn Đức Niệm là hai ngài đầy ân tình và nhiệt huyết với Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại. Hai Ôn về sớm nhất mà từ giã để về lại trú xứ lại là trễ nhất. Trong những ngày hai Ôn đến sớm, con có phước báo hầu hạ và được hai Ôn ân cần dạy bảo tận tình như những vị cha săn sóc và giáo huấn con cái. Ôn Đức Niệm thì con được phước duyên hầu cận hoài. Ít nhất là một năm một hoặc hai lần qua những ngày lễ lớn. Riêng Ôn, tuy chỉ gặp bốn lần, nhưng ngược lại hầu chuyện với Ôn qua điện thoại lại nhiều hơn mỗi khi Ôn nói chuyện với Thầy con.
       Con nhớ nhất là khi Ôn ở lại hai hôm sau khi Đại lễ được chu tất ;  ngồi ăn bánh bột lọc do con cúng dường lên quý Ôn dưới giàn khổ qua sai trái sát cạnh chùa :  Ôn Thuyền Ấn, Ôn Đức Niệm, Ôn (Trí Chơn), Ôn Thiện Trì (lúc này ngài phải ngồi xe lăn) và Thầy con. Chúng con, một số Phật tử của chùa đứng vòng tay chung quanh quý ngài để được nghe quý ngài hàn huyên Phật sự.
       Ôn Đức Niệm dạy :
       - Tui qua Từ Đàm, lúc nào ăn cũng ngon miệng mà không sợ gì cả. Thầy Tín Nghĩa có phước được sư cô lo lắng kỹ càng về ăn uống. Cho nên, tui qua đây ăn cơm được hai chén mà lại có chao Huế kho với trái bùi, làm tui nhớ tới kỷ niệm trên 40 năm về trước, khi tui đứng hầu quý Ôn Thiện Hòa, Ôn Trí Quang, Ôn Thiện Minh ở Ấn Quang.
       Ôn Thuyền Ấn nói :
       - Tui nhớ món chao Huế khi thầy Trí Quang cho ăn cũng như ri. Ngon ơi là ngon.
       Ôn Thiện Trì vừa cười vừa nói rất cảm động :
       - Có lẽ đây là bữa ăn đầu tiên với Từ Đàm cùng chư Tôn đức mà cũng là lần cuối. Rồi đây, không biết có còn được gặp lại nhau nữa không ?
       Ôn Trí Chơn vừa cười vừa nói :
       - Thầy nói vậy, chứ phước báo thì chưa biết ai đã đi trước. Thầy tuy đau thật, nhưng biết đâu thầy lại trụ thế hơn tụi tui không chừng.
       Quý Ôn vừa nói, vừa ăn bánh bột lọc, vừa uống trà thật tự nhiên. Chiều lại, chúng con đưa quý ngài ra phi trường.
       2.- Lần thư hai, Ôn qua Từ Đàm thuyết pháp và chiếu phim lịch sử Thánh tích Phật giáo qua hình thức slideshow. 
       Chiếu đến Thánh tích nào, Ôn giải thích đến đó rất minh bạch, ngoạn mục. Tối chiếu phim ấy có khoảng ba trăm Phật tử tham dự. Không khí im lặng và chăm chú nghe Ôn giải thích, bên cạnh đó, Ôn cho biết là những nơi này Ôn đã từng ở lại có khi cả tuần lễ để nghiên cứu. Ôn còn cho biết thêm là sau khi xong chương trình Tiến sĩ, được Hòa thượng Thiên Ân mời qua Mỹ cọng tác, Ôn cũng còn qua Ấn Độ một lần nữa. Lần này Ôn ở Ấn Độ khá lâu và đi đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, nơi nào có dấu tích đức Phật đến là Ôn cũng cố gắng tìm đến. Ôn bảo, tuy ở học Ấn độ lâu, nhưng không có thì giờ đi nhiều như lần đi tìm hiểu này. Ôn cũng cho hay là sẽ thu tóm những chuyến nghiên cứu như thế qua những quốc gia Phật giáo thành một tập sách vừa ảnh, vừa dẫn giải trong nay mai. Có lẽ, ý nguyện này đang ở trong bản thảo, không biết quý Thầy Cô trong Linh Mụ có tập hợp cho ra đời để cống hiến cho lớp hậu học biết về Thánh tích Phật giáo khắp đó đây hay không ?  Đang chờ.
       3.- Lần thư ba, Ôn qua dự Đại hội Cư sĩ do Hòa thượng Tín Nghĩa tổ chức vào các ngày 25, 26 và 27 tháng 04 năm 2003.
       Kể từ khi thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ, khi Thầy con làm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ mới có được một Đại hội cho hàng cư sĩ có tầm cỡ. Ngoài chư Tôn đức Giáo phẩm và quý Thành viên Cư sĩ trí thức của giáo hội như giáo sư Trần Quang Thuận, Giáo sư Bùi Ngọc Đường, lại còn có thêm những vị tên tuổi như Trung tướng Quảng Uy Tôn Thất Đính, Giáo sư Tiến sĩ Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn, vợ chồng nhà báo Trần Nghi Hoàng và Hoàng Bích Ti về từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn và quý Thiện tri thức Phật giáo khắp đó đây về dự Đại hội. Đại hội gồm 107 vị. Có những phái đoàn như chùa Từ Ân, Louisville trên sáu vị.
       Lần này, Ôn cũng về sớm và về bằng tuyến đường xe bus. Con còn nhớ rất rõ là Ôn gọi phone về (lúc này chưa có phone di động nhiều), Thầy con đi đón ở trạm xe Bus, downtown Dallas. Thầy con lên tìm gần cả tiếng đồng hồ mà vẫn không gặp được Ôn.
       Thầy con gọi về hỏi :
       - Ôn Trí Chơn có gọi điện thoại về không ?
       - Dạ có, Ôn dạy là Ôn ngồi nơi ghế điện thoại và đang dịch bài.
       Thầy con nghe vậy, chạy đi tìm và gặp Ôn. Về chùa thầy con kể cho mọi người nghe, mọi người cười vang và Ôn cũng cười chúm chím.
       Ôn bảo :
       - Tui xuống đó, lấy cái xách hành lý nhỏ, có anh chàng Mỹ đen đi theo, tui vừa lủi thủi đi, vừa quay đầu ngó lại nó. Nó cười và tách qua phía khác. Tui yên tâm, tìm điện thoại gọi về chùa. Người tui vốn nhỏ, nên Phật tử chưa lần nào gặp mà đi đón cũng hỏi hoài mấy người ở nhà là thầy có gọi điện về không ?
       Ôn vừa nói, vừa cười làm bữa cơm chiều hôm đó cũng mang bầu không khí thiền vị. 
       Ôn Đức Niệm thêm vào :
       - Thầy Trí Chơn người nhỏ con vậy mà không bệnh hoạn gì cả, sống lâu lắm.
       Ôn cười và nói tiếp :
       - Tui, chắc không cao hơn Đại lão Hòa thượng Tây Thiên (tức Ôn Giác Nguyên, đệ nhị Trú trì Tây Thiên Di Đà tự).
       Thầy con bảo : 
       - Ôn Tây Thiên không cao lắm. Hồi Mậu Thân chúng tôi ra đưa hai Ôn Tây Thiên và Thuyền Tôn từ Tổ Đình Linh Quang về lại Tây Thiên. Ôn Thuyền Tôn (tức Đệ nhị Tăng Thống) chịu ngồi xe để chạy cho nhanh ;  còn Ôn Tây Thiên bảo, tui lùn đạn bắn không trúng. Cứ thế Ôn chạy lúc thúc làm chúng tôi sợ muốn chết. Tụi Mỹ thấy cũng nực cười. 
       Thầy con kể đến đây, cả chùa phá lên cười. Thế nhưng, Ôn Tây Thiên hầu Phật 107 tuổi, Ôn thì vừa đúng 79 tuổi. Và, hành hoạt tại Hoa Kỳ cũng như hải ngoại 40 năm dư.
       Bốn mươi năm hành hoạt ở xứ người, riêng tại Hoa Kỳ trên 40 cơ sở. Cũng đã có khoảng một nửa đầy đủ quý Thầy Cô đứng ra cáng đáng Phật sự, trên 15 dịch phẩm và một số bài rải rác trên các tờ báo hoặc đặc san Phật giáo trên khắp thế giới. Đó là chưa kể những dịch phẩm còn tồn đọng mà Ôn chưa có cơ duyên để cho hiện diện với đời.
       4.- Lần thứ tư, Ôn qua thắp nến cầu nguyện cho Hòa bình thế giới.
       Lần này Ôn qua vừa đúng lễ và Ôn về sớm cho nên cũng không có những kỷ niệm đáng nhớ. Một bữa cơm trưa đạm bạc với quý thầy trong Hội đồng Điều hành của Giáo hội, cọng thêm một số chư tôn đức địa phương với trên một trăm năm mươi Phật tử và Gia đình Phật tử Từ Đàm cùng sự phối hợp với hai Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Dallas và Fort Worth.
       Buổi lễ thắp nến cầu nguyện kéo dài gần hai tiếng rưỡi đồng hồ. Sau đó, Ôn lại phải nghỉ sớm để sáng sớm Ôn phải lên xe bus đến thuyết giảng cho một Hội Phật giáo khác.
       Con viết gì lên đây, khi Ôn là một bầu trời bao la mà con chỉ là hạt cát nhỏ nhoi. Giờ nầy con chỉ biết cúi đầu bái niệm và ghi lại đôi dòng hoài niệm về Ôn gọi là bậc Tôn sư khả kính đối với con nói riêng và hàng hậu học nói chung.
       Kính bạch Giác linh Ôn, nội trong năm này mà đệ tử của Đức Đệ tam Tăng Thống đã có đến ba vị viên tịch (Ôn, Sư phụ của con và Ni trưởng Diệu Tràng). Tuy tất cả cũng đều khá trọng tuổi, nhưng cũng lấy làm buồn. Chỉ biết niệm Phật, biết nói sao bây giờ, hỡi Ôn !
       Con xin đê đầu bái biệt Ôn.

       Nam mô Từ Lâm tế Chánh tôn, Tứ thập tam thế, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ, Khai sơn Linh Mụ Hải Ngoại tự húy thượng Tâm hạ Chánh, tự Trí Chơn Trưởng lão Hòa thượng Giác linh chứng giám.

       Khể thủ,
       Mùa Phật Đản 2555 - Kỷ mão Trọng hạ.
       Hậu duệ Thích Nữ Hạnh Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4195)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5590)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3811)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5243)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5318)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11522)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5500)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567