Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bùi Giáng và những chuyện chưa kể

19/03/201002:09(Xem: 6366)
Bùi Giáng và những chuyện chưa kể

BÙI GIÁNG
VÀ NHỮNG CHUYỆN CHƯA KỂ
Chơn Nguyên

Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 …

Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.

Vào thời đó, mỗi hộ đều có một cuốn sổ lương thực. Anh Giáng giữ sổ cẩn thận và đảm trách công việc đi mua lương thực rất chu đáo. Trong khoảng thời gian ở chung anh chưa một lần bỏ công việc. Chỉ khi nào hợp tác xã bán khoai sắn hay những loại lương thực giá rẻ, anh mới mua rồi đem phân phát cho những người nghèo. Nhiều khi thấy anh vác bao những gạo 10kg hay 20kg lên cầu thang, chúng tôi ái ngại, xuống vác giùm, nhưng anh không chịu. Sau mỗi lần buông gạo trên vai xuống, dường như anh vui hơn, khỏe hơn và tỉnh táo vô cùng, lạ thật!

Anh Giáng rất thương người. Nhiều lần anh xin chúng tôi tiền, đi rảo quanh chợ, cho những người nghèo khó mà anh đã theo dõi và biết rỏ về hoàn cảnh khó khăn của họ. Có lần anh muốn giúp người nào đó quá khó khăn, túng thiếu với số tiền nhiều nhưng không dám xin tiền chúng tôi nên anh vào phòng gom quần áo, sách vở của chúng tôi đi bán ở đâu không biết. Hai ba ngày sau mới về, như một người biết lỗi, anh len lén vào phòng, ngồi im trong một góc giường. Thấy bộ dạng của anh, chúng tôi không còn giận nữa, nhưng vẫn làm nghiêm hỏi:

- Anh lấy quần áo, sách vở của tôi phải không?

- Phải

- Để làm gì?

- Giúp người

- Tại sao anh lấy đồ vật của người ta mà còn kỳ thị địa phương?

Anh ngạc nhiên hỏi lại:

- Cái gì?

- Áo quần, sách vở của chúng tôi để chung với anh Châu. Anh Châu đồng hương Quảng Nam với anh, nên anh chỉ lấy áo quần, sách vở của tôi, còn của anh Châu thì không lấy thứ gì cả, kỳ thị địa phương chứ gì nữa?

Anh phì cười:

- Không phải đồng hương, đồng khói gì cả, chỉ vì thằng Châu sinh viên nghèo, lấy của nó tội.

Rồi sau đó, Viện Đại học Vạn Hạnh được sử dụng làm Trường Đại học Sư phạm, chúng tôi dời về 716 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận. Khi về nơi đây, anh Giáng không về theo. Anh đi đâu không rõ. Hơn nữa năm sau, anh mới trở lại. Anh lặng lẽ đi vào phòng chúng tôi, đặt lên bàn một nải chuối chín vàng rất đẹp và một lá thư rồi lặng lẽ đi như đã đến. Chúng tôi xúc động vì lâu ngày mới gặp lại anh, và ngạc nhiên vì cử chỉ khác thường của anh . Chúng tôi trân trọng đặt nải chuối lên cúng Phật và cầm lá thư đọc:

“ Ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ

Hồng sơn, sơn hạ Quế giang thăm”.

Không biết hai câu thơ này anh làm hay anh trích dẫn của ai, nhưng đọc xong chúng tôi lặng cả người vì tình cảm nồng hậu của anh.

“ Ta có tấc lòng chưa ngõ được,

Dưới chân núi Hồng, sông Quế mãi sâu”.

Sau đó , anh thường xuyên lui tới với chúng tôi, nhiều khi ở hai ba tháng liên tục, rồi đi đâu đó nữa tháng mới trở lại. Một lần, anh trở về với tiếng chó sủa, tiếng kêu inh ỏi của bầy chó, anh kêu chúng tôi ra ngồi dưới gốc cây hoa hậu để nói chuyện. Anh cho biết, anh mới từ Long An về sáng nay, ghé chợ nhỏ Phú Nhuận, nhâm nhi cốc nhỏ cho ấm bụng. Nhưng nghe tiếng kêu của bầy chó và bộ dạng quen thuộc của anh, lũ nhỏ bán bánh kẹo quanh chợ liền tụ tập quanh anh khá đông. Anh đọc thơ, nói đủ thứ chuyện cho bọn trẻ nghe. Chúng mải mê theo anh nên quên cả bán buôn. Thấy trưa rồi, anh mới nói:

- Trong tụi bây, đứa nào làm được hai câu thơ thật hay, tau sẽ mua toàn bộ bánh kẹo, nếu không được tất cả phải đi bán nghe chưa.

Sau một đỗi, có đứa nhảy ra trước mặt anh và nói:

- Thật không bác?

Rồi chẳng cần anh trả lời, nó ứng khẩu đọc liền:

“ Sáng nay bán ế quá chừng, Vì nghe bác Giáng nói khùng quên đi”.

Thế là bao nhiêu tiền trong túi, anh đem cho hết bọn trẻ.

Mỗi lần hết tiền, anh thường tìm đến chúng tôi; và lần này…kể xong chuyện, anh tặng chúng tôi hai câu thơ:

“Đến thăm sư phụ Chơn Nguyên, Trầm tư vô tận ưu phiền tái lai”.

Sau khi đưa tiền cho anh trả tiền rượu và tiền xích lô, chúng tôi gởi tặng lại anh hai câu thơ:

“Nghe tin sư phụ thở dài, Đến đây Bùi Giáng đòi hoài tiền xe”.

Anh nhận tiền và khoái chí cười to.

Anh Bùi Giáng gọi chúng tôi với đủ loại danh xưng, như trong tờ giấy chép thơ tặng chúng tôi, anh ghi:

“Kính gửi sư phụ, Đồng chí, Đại ca Thích Chơn Nguyên:

Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ, Có ai ngờ xó chợ cũng thương nhau”.

Một hôm có người rũ anh về lục tỉnh chơi, anh mãi vui dưới đó hơn ba tháng mới trở lại; chắc là nhớ thiền viện Vạn Hạnh lắm, nên mới sáng tinh mơ, anh đã đến Viện để đưa tờ giấy:

“Kính gửi: Thầy Minh Châu

Thầy Chơn Thiện

Thầy Chơn Nguyên

Kính dâng Vạn Hạnh một tờ

Kể từ vô tận bất ngờ tái lai”.

Chuyến đi anh quá phung phí sức, nên đến Viện vài hôm, anh ngả bệnh. Chúng tôi săn sóc và tẩm bổ anh cả tháng mới hồi phục, vừa khỏe xong là anh lại đi. Trước khi đi anh để lại bài thơ:

“Thầy vui như thể thiên thần,

Con buồn như thể tuyệt trần bấy nay.

Thầy vui Vạn Hạnh bấy chầy,

Con buồn chết đứng giữa ngày phù du”.

Sau đó, vắng anh thời gian khá lâu, mới biết được anh về ở với người cháu sau lưng chùa Liên Ứng. Chúng tôi đến thăm anh vào một đêm rằm, trăng đổ đầy khu vườn anh ở, mới gặp nhau chưa kịp mừng, anh hỏi như kẻ lạ:

- Đi đâu đó?

- Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.

Câu trả lời làm anh vui, phấn khởi như ngày tháng quen cũ. Anh đọc đủ loại thơ, với nhiều giọng, kể cả giọng Quảng “Nôm”của anh.

Trước khi ra về, anh đưa cho chúng tôi một bài thơ của Lý Bạch, anh nói bài thơ này có tư tưởng gần với giáo lý nhà Phật; về dịch xong đưa lại cho anh xem. Nghe anh nói, tôi ngại, đâu dám múa may trước một người cao vời vợi về thơ ca cũng như chữ nghĩa, hơn nữa chúng tôi chưa từng làm việc này một cách nghiêm túc. Thỉnh thoảng, chúng tôi cũng có dịch thơ Đường, nhưng bài nào thích thì dịch, rồi đọc bạn bè nghe cho vui mà thôi. Hôm nay, anh lại nhờ, nhờ một cách quá trân trọng, vì thế chúng tôi không thể từ chối. Bài thơ của Lý Bạch như sau:

NGHI CỔ

Sanh giả vi quá khách
Tử giả vi quy nhân
Thiên địa nhất nghịch lữ
Đồng bi vạn cỗ trần
Nguyệt thổ không đảo dược
Phù tang dĩ thành tân
Bạch cốt tịch vô ngôn
Thanh tùng khởi tri xuân
Tiền hậu cánh thán tức
Phù vinh hà túc trân

Đọc xong nguyên tác, chúng tôi ngại việc dịch không chuyên chở hết ý của bài thơ, nhưng nặng tình với anh, chúng tôi đem về dịch:

THEO DẤU CHÂN XƯA

Sống là như khách qua đường
Chết là trở lại quê hương của mình
Đất trời quán trọ mông mênh
Nghìn năm cát bụi tâm tình đớn đau
Thời gian có đợi ai đâu
Đâu xanh hôm trước nay màu củi khô
Ngổn ngang xương trắng ngẩn ngơ
Hàng tùng xanh thẳm đâu ngờ xuân sang
Trước sau là tiếng thở than
Cuộc đời hư huyển giàu sang làm gì?

Gửi anh bài thơ dịch. Chưa gặp lại anh, để nghe ý kiến, thế mà anh không còn nữa! Nhưng biết đâu, việc dang dở này là cái cớ để anh thêm lần nữa: “Ngã hữu thốn tâm vô dự ngữ”.

Phải không anh Bùi Giáng?!



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/08/2013(Xem: 10963)
Hôm ấy, một buổi sáng đẹp trời, khoảng 8 giờ, tôi đang ngồi học tại bàn riêng của mình thì thấy thầy Trừng San vén màn bước vào, tôi liền đứng dậy định chấp tay chào Thầy thì Thầy đưa tay ấn nhẹ vai tôi ra hiệu tôi ngồi xuống.
13/08/2013(Xem: 6914)
Non nửa thế kỷ qua (1957 – 2005), phần lớn Tăng, Ni sinh tu học tại các Phật học viện miền Trung và miền Nam đều thọ hưởng ân đức dưỡng dục của Hòa thượng Thích Đỗng Minh, đặc biệt là những anh chị em tu học ở Phật học viện Hải Đức và Diệu Quang, Nha Trang. Những giờ lên lớp của Hòa thượng quả thật đã để lại trong lòng học trò những ấn tượng vô cùng thú vị và hiệu quả.
13/08/2013(Xem: 7277)
Nhớ phong thái xưa: Dung nghi đĩnh đặc, ý chí kiên cường; bước chân đi như long tượng lên đường, ngồi lần hạt tợ kim sơn thạch động. Ngày đêm kính cẩn, giới luật nghiêm trì; ít quan tâm đến ẩm thực tiện nghi, dốc toàn lực cho kinh văn giáo điển.
11/08/2013(Xem: 9567)
Được tin Ôn Từ Mãn viên tịch, tôi giật mình, định lên Đà Lạt đảnh lễã kim quan Ôn lần cuối, nhưng vì bận việc kết thúc năm học, tôi không đi được, lòng áy náy hoài. Sáng sớm hôm sau, tôi mở computer, bỗng dưng truy cập Trang Nhà Quảng Đức của thầy Nguyên Tạng bên Úc, thấy hình Ôn hiện trên trang web trong bộ y hậu vàng tươi, mũ Quan Âm thẳng tắp với khuôn mặt hồng hào, tươi đẹp như đang ngồi truyền giới cho bốn chúng quy y. Tôi vừa xúc động vừa sung sướng, ngắm Ôn chăm chăm một hồi, chắp tay xá Ôn ba xá, rồi đi công phu.
11/08/2013(Xem: 12128)
Hòa thượng thế danh là Trần Đại Quảng, pháp danh Tâm Trí, tự Viên Giác, hiệu Chiếu Nhiên, thuộc đời thứ 43 dòng Lâm Tế, Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Dương Nổ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình Nho phong đức hạnh nhưng có chí cách tân, theo hướng Tây học. Thân phụ là cụ ông Trần Đại Dật, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mĩu (pháp danh Tâm Mỹ).
11/08/2013(Xem: 7005)
Biển Nam Hải chập chùng sóng bạc, Núi Phổ Đà bát ngát đường mây, Quán Âm đại điện còn đây, Trời thu lãng đãng bóng Thầy khuất xa.
08/08/2013(Xem: 42108)
Cho mãi đến ngày hôm nay, 40 năm sau Cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức, vị pháp thiêu thân (ngày 20/4 năm Quý Mão - 1963) bóng cây Bồ Đề của Ngài vẫn còn mát mẻ gội nhuần khắp cõi nhân gian, nhất là trong hàng Phật tử Việt Nam, trong nước cũng như ở hải ngoại. Kể cả người ngoại quốc, Âu, Mỹ khi nghe nói đến Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam, ít nhiều gì họ cũng nhắc đến hình ảnh hy sinh bất khuất của Bồ Tát Thích Quảng Đức. Nhắc đến với một niềm kính phục, trân quý.
03/08/2013(Xem: 9056)
Hòa thượng họ Lâm, sau đổi họ Nguyễn, sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Lâm Du Nhân pháp danh Tâm Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mua pháp danh Tâm Đắc. Hai cụ thân sinh, do có túc duyên với Tam bảo nhiều đời, nên đã hoan hỷ cho Hòa thượng xuất gia từ nhỏ và đã phát tâm mua đất kiến tạo ngôi tự viện Phi Lai tại xã Hòa Thịnh, tạo thuận duyên tu học cho Hòa hượng. Hòa thượng có 7 anh em, 5 trai 2 gái, Hòa thượng là người con thứ 2 trong gia đình. Cả gia đình đều trực tiếp tham gia vào sự nghiệp Cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567