Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông

03/08/201403:32(Xem: 5546)
Tiểu Sử Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông




blank
Chân dung cố Ni trưởng Huyền Tông



Tiểu Sử 
Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông




I. THÂN THẾ

Hòa Thượng Ni thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, là con gái lớn của Cụ ông Dương Ngọc Vinh pd: Tâm Quang và Cụ bà Trương Thị Mau

II. ẤU THƠ
Lúc tuổi còn thơ, ngày hai buổi Hòa Thượng Ni cùng bạn bè cắp sách đến trường, tuy sống trong nhung gấm nhưng có lẽ do tiền căn túc thế nhiều đời đã có chủng tử Phật Pháp tu học nên Hòa Thượng Ni lạnh lùng không màng đến sự sung túc vật chất và tình cảm êm ấm gia đình cha mẹ mà luôn mơ ước một nếp sống cao đẹp, lý tưởng hơn. Ước mơ ấy được Hòa Thượng Ni ấp ủ trong lòng từ thuở còn là nữ sinh bé bỏng, chẳng biết tâm sự cùng ai. Ngày lại qua ngày, Hòa Thượng Ni chẳng thấy vui thích gì trước sự giàu sang phú quý của gia đình, ngọc ngà, châu báu không làm Hòa Thượng Ni động tâm, tình yêu đôi lứa không lay động tâm hồn thanh thoát. Mỗi ngày qua, chí hướng xuất trần của Hòa Thượng Ni càng được ung đúc mạnh thêm hơn. Tuy nhiên, với tuổi còn non trẻ, tâm trạng của Hòa Thượng Ni như một chú chim non nhìn trời rộng mây xanh, muốn bay mà lông chưa phủ cánh.

III. THỜI GIAN TU HỌC

1. Xuất gia thọ giới

Nhân duyên đã đến, năm 1934, Hòa Thượng Ni 16 tuổi được mẹ dẫn đi Chùa Long Hải (Mã Loạn – Phan Thiết). Tại đây Hòa Thượng Ni thọ Tam quy ngũ giới với Cố Đại lão Hòa Thượng Thanh Nguyên, được pháp danh thượng Trừng hạ Tấn. Cũng trong dịp này, Hòa Thượng Ni đã cảm nhận sâu sắc nếp sống thoát tục thanh cao của đời tu sĩ, Ngài cùng với người Cô họ của mình (Cố Hòa Thượng Ni Huyền Học) quyết tâm bỏ đời gấm hoa theo cuộc đời áo nâu vào năm 17 tuổi, tuy nhiên giấc mộng trốn nhà vào chùa xuất gia bị vỡ kế, gia đình Ngài càng để ý ràng buộc chặt chẽ hơn.Qua năm sau, hai Cô Cháu tổ chức lần thứ hai, lần này với bao nhiêu khó khăn gian khổ cuối cùng Hòa Thượng Ni đã thoát khỏi vòng dây ràng buộc của gia đình. Ngài tìm đến Chùa Hải Ấn TP.Sài Gòn và xin phép Cố Trưỡng Lão Hòa Thượng Ni viện Chủ cắt tóc ngay để biểu lộ tinh thần quyết chí xuất gia đối với song thân người, lúc ấy đúng giờ Ngọ ngày rằm tháng 7 năm Bính Tý (nhằm ngày 3 tháng 7 năm 1936). Năm 1936 Hòa Thượng Ni được thọ giới Sa Di Ni, pháp hiệu là Huyền Tông, Bổn Sư Ni của Ngài là Cố Trưỡng lão Hòa Thượng Ni Thích Diệu Tịnh. Năm 1937 thể theo yêu cầu tha thiết của song thân Hòa Thượng Ni, Cố Đại lão Hòa Thượng Ni Thích Diệu Tịnh đã cho phép hòa Thượng Ni lãnh ngôi chùa làng Bình Quang tại phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết để hướng dẫn Phật tử tu tập và cũng như để gần giũ gia đình dễ dàng thăm viếng. Ngày 19 tháng 2 năm Mậu Dần (1938), vía Quan Âm, Hòa Thượng Ni được thọ giới Thức Xoa Ma Na tại chùa Bình Quang. Giới đàn do Cố Trưỡng Lão Hòa Thượng Ni Diệu Tịnh tổ chức. Hòa Thượng Ni nỗ lực tinh tấn tu học, trau dồi giới hạnh, nghiêm trì giới đức.

Năm Canh Thìn (1940) ngày Lễ Khánh Đản Đức Phật Bổn Sư. Hòa Thượng Ni Thọ Cụ Túc giới tại Chùa Vạn An, tỉnh Sa Đéc. Có lẽ do phước duyên nhiều đời vun bồi, Hòa Thượng Ni đã thăng tiến rực rỡ trên con đường bẩm thọ giới pháp như cánh én gặp xuân về. Cả ba giới đàn Ngài đều bẩm thọ ân triêm giới phẩm.

2. Học Phật Pháp
Từ năm 1936 đến 1940, Hòa Thượng Ni được thọ giáo với Thầy Bổn Sư Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn và Bình Quang. Với tinh thần thiết tha cầu học, Hòa Thượng Ni luôn khát khao từng giọt cam lồ pháp nhũ vì vậy mà không chỉ một mình tự nghiên cứu học tập kinh điển, mà Ngài còn chu du tham vấn học tập kinh điển từ các bậc Tôn Đức ở miền Trung. Với tư chất thông minh và đức tính cần mẫn Hòa Thượng Ni sớm đã thấu triệt diệu lý của đạo mầu, đủ để hướng dẫn cho chính mình và cũng như cho đồ chúng trên con đường giải thoát.

IV. CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI
Mùa thu năm 1945, cao trào cách mạng chống Pháp giành độc lập tư do cho Tổ quốc và dân tộc đã bùng lên và lan tràn khắp lãnh thổ Việt Nam, Hòa Thượng Ni đã ý thức được sự tương quan mật thiết giữa đời và đạo, sự gắn bó thiêng liêng giữa Phật giáo và dân tộc có truyền thống từ mấy ngàn năm, Hòa Thượng Ni đã dũng cảm tham gia phong trào Phật giáo cứu quốc tại tỉnh Bình Thuận và thành lập Gia Đình Phật Tử từ năm 1946 đến 1950. Mặc dù dưới sự cai trị chặt chẽ của chính quyền thực dân Pháp và mạng lưới mật thám bủa vây khắp nơi, nhưng trước tiếng gọi lâm nguy của Tổ quốc, Người vẫn kiên trì bền gan tích cực mọi công tác bí mật ủng hộ phong trào cứu nước.

Năm 1963, tranh đấu dành tự do tín ngưỡng, Ngài quyết tâm thiết tha kêu gọi chư Ni và Phật Tử trong Tỉnh Thành, biểu tình chóng chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1964, sau cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng của Phật giáo với chính quyền họ Ngô ổn định, công tác Phật sự tại tỉnh nhà trở nên bề bộn, nghĩ đến sự trường tồn của ngôi Tam Bảo, Ngài không quản ngại tuổi già sức yếu đã đứng ra nhận lãnh hai công tác cùng lúc:
1- Trưởng Ban Ni Bộ Bắc Tông tỉnh Bình Thuận.
2- Quản lý trường Trung Học Bồ Đề Phan Thiết.

V. PHẬT SỰ TRÙNG TU CÁC TỰ VIỆN
Năm 1945, Hòa Thượng Ni quyết định bằng mọi cách đúc cho được pho Tượng Đức Bổn Sư Thích Ca bằng đồng để thờ. Bắt tay vào việc chẳng mấy ngày, Ngài gặp nhiều trở ngại khó khăn, nhưng với ý chí dũng mạnh, với đức tin trọn vẹn trước Hồng ân Tam Bảo, Ngài không lùi bước. Cuối cùng Tượng Phật được hoàn thành, tướng hảo trang nghiêm, hiện được tôn thờ tại Chánh điện Tổ Đình Bình Quang. Năm 1949 – 1950 Ngài trùng tu Bình Quang Ni Tổ Đình lần thứ nhất. Năm 1951, Ngài xây cất lại Chánh điện Tổ Đình Bình Quang trở thành một đạo tràng rộng rãi, trang nghiêm cho Ni chúng và Phật tử về tu tập. Năm 1965, Tổ đường, Khách đường, Thiền đường và nhà Trù được lần lượt xây cất lại với sự đóng góp phần lớn từ song thân Ngài. Hòa Thượng Ni tâm sự với đệ tử “Thầy phải cố gắng xây cất lại, Thầy tịch rồi, các con làm sao xây dựng nỗi?”. Nghe câu nói này, chúng tôi nghẹn ngào, ngấn lệ trong sự im lặng.

Lời tâm sự ấy tuy ngắn ngủi vắn tắt nhưng là cả biển lòng từ đối với hàng đệ tử kém phúc duyên, là nỗi lo lắng sâu xa của bật Thầy đối với hàng đệ tử kém phước đức, là lòng trắc ẩn xót thương của người mẹ hiền nhìn đàn trẻ thơ non dại. Quả thật, Ngài đã ra đi mà phúc duyên Ngài còn để lại, giờ đây nhìn cảnh chùa uy nghiêm tráng lệ, người còn lại ai không khỏi chạnh lòng khôn xiết, tiếc thương Ngài. Xưa, Bình Quang Ni Tự là ngôi chùa làng, mái lá, dột nát tứ tung. Nay, Bình Quang Ni Tự là ngôi Tổ Đình uy nghi, hưng thịnh, không còn dấu tích của ngày xưa nữa. Vậy Ngài là Tổ khai sơn hay người trùng tu Bình Quang Ni Tự, nghĩa cũng vậy thôi. Song thân của Ngài đã mua cho người môt ngôi Biêt Thự làm Tịnh Thất nghĩ mát mùa hè tại cây số 7 – HÀM MỸ. Người hướng dẫn và sách tấn Ni Sư Như Thiện xây dựng ngôi Đai Hùng Bảo Điện, rộng lớn uy nghiêm, để có nơi cho Ni Chúng và Phật Tử tu học. Ngày nay là Liên Hoa Ni Tự.

VI. NHIẾP HÓA ĐỒ CHÚNG
Năm 25 tuổi, Ngài bắt đầu tiếp nhận đồ chúng. Mặc dầu sinh trưởng trong gia đình khá giả giàu có nhưng Ngài đã chọn nếp sống đạm bạc, tu khổ hạnh. Cuộc sống của Ngài là tấm gương thể hiện rất cao, tinh thần cắt ái ly gia, dù rằng gia đình Ngài chỉ cách bên kia bờ sông Phan Thiết nhưng Ngài không bao giờ về nhà. Ngài nêu cao tinh thần giới luật trong đời sống hằng ngày. Ngài dùng tam học: Giới, Định, Tuệ để dạy dỗ, dắt dìu đệ tử qua khẩu giáo và thân giáo của Ngài. Có lúc Ngài uy nghiêm, vòi vọi làm cho hàng đệ tử kính phục, nhưng cũng có lúc Ngài bình dân giản dị, hài hòa, thân mật với chúng đệ tử như mẹ với con. Ngài luôn luôn quan tâm dạy dỗ chu đáo cho tất cả những ai có duyên với Ngài cho đến hơi thở cuối cùng. Vì thế hàng đệ tử của Ngài, mọi người ai cũng tôn trọng và kính mến Ngài. Đối với Phật tử tại gia và gia đình PHẬT TỬ, Ngài mở rộng lòng từ, đem pháp tam quy ngũ giới của Đức Thế Tôn để nhiếp hóa họ tiến dần trên con đường giải thoát. Lập cước trên tinh thần từ bi, bình đẳng, ai có lòng tin Tam Bảo đến với Ngài đều được Ngài nhiếp hóa không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, lão ấu, thân sơ… Ngài luôn thiết tha trước sự nghiệp giải thoát cho mình và tha nhân, sự tăng huy trường cửu của ngôi Tam Bảo.

VII. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Giữa biển rộng sắc sắc không không, trong lòng đời nhị nguyên tương đối, cái gì hữu hình ắt hữu hoại, thân ngũ uẩn là một pháp nhân duyên giả hợp thì tránh làm sao khỏi cảnh hoa nở để rồi tan. Ngày tháng lặng lẽ qua nhanh, Ngài đã trải qua những ngày cuối cùng trong im lặng, trang nghiêm thanh tịnh và sự minh mẫn. Đạo lực tiềm tàng một cách dồi dào trong suốt một kiếp người với nếp sống nội quan phong phú đã tỏa rạng tươi thắm, trang nghiêm và đầy đạo vị trong những tháng ngày cuối đời của Ngài. Ngài không hề nao núng trước sự ốm đau bệnh hoạn của tấm thân mộng huyễn, và Ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 5giờ sáng ngày mùng 8 tháng 7 năm GIÁP NGỌ ( ngày 3 – 8 – 2014 ) tại Tổ Đình Bình Quang Ni (số 02 Đường Cao Thắng, F.Bình Hưng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận), trụ thế 96 năm, Hạ lạp 76 năm. 3 HỒI CHÔNG TRỐNG BÁT NHÃ CUNG TIỄN NGÀI. ôi! Nói làm sao cho hết một mẫu đời xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Kính bạch Giác Linh Thầy, Tập bút ký “Tại sao tôi đi tu” và Thi thơ “Lưu niệm” của Thầy còn đây mà Thầy đã ra đi.Từ nay trong Phương Trượng, giữa vườn hoa, dưới hiên chùa đâu còn bóng Thầy thiền hành nhẹ nhàng qua lại với dáng dấp thanh tú dịu hiền, với đạo phong uy nghiêm từ tốn. Thầy đã ra đi! Giờ đây Thầy ở đâu trong Pháp giới vô biên.

Trên nữa thế kỷ tu thân hành đạo và hóa đạo, đời thầy như nguồn suối luân lưu, ghi lại tiểu sử thầy chẳng khác nào chúng con để lại cho đời một tách nước bị cô đọng trong phạm trù bé nhỏ. Kính bạch Giác Linh Thầy, Thầy đã ra đi. Ôi trăng khuyết, bèo tan! Thiền sàng còn đây, mà đâu còn nữa tôn dung Thầy ngự ngọa Bát đũa còn đây mà đâu còn nữa hình ảnh Thầy nâng bát cơm cúng Phật hằng ngày. Vẫn biết sự đời có đến có đi mà sao chúng con vô vàn đau xót. Trước ơn đức cao dày hơn trời biển, Thầy thay Đức Phật hóa độ chúng con. Giờ đây trước cảnh biệt ly, âm dương đôi ngã, chúng con xin đầu thành đảnh lễ và đốt nén tâm hương, kiền thành quỳ dưới tôn dung Thầy, cung kính phác họa lại vài nét đơn sơ của một đóa sen thơm ngát, lung linh muôn màu sắc.

 

Kính bạch Giác Linh Thầy từ mẫn hạ cố chứng minh cho.

Chúng con thành tâm cầu nguyện hồng ân Chư Phật thùy từ tiếp độ Giác Linh Thầy cao đăng Phật quốc.

Nam mô Tân Viên Tịch Giác Linh Bổn Sư Hòa Thượng Ni tác đại chứng minh.

http://phatquangtemple.org/tieu-su-truong-lao-hoa-thuong-ni-thich-huyen-tong




****

GNO - 5g sáng 8-7 Giáp Ngọ (3-8-2014), NT.Thích nữ Huyền Tông đã viên tịch tại tổ đình Bình Quang Ni tự (số 02 Cao Thắng, P.Bình Hưng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận), trụ thế 96 năm, Hạ lạp 76 năm.

blank
Chân dung cố Ni trưởng Huyền Tông


Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày.

Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự.

Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh  tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc).  

Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tôn giáo trong phong trào Phật giáo năm 1963.

Sinh thời, Ni trưởng từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Ni bộ Bắc tông tỉnh Bình Thuận, quản lý Trường Trung học Bồ Đề Phan Thiết và xây dựng Bình Quang Ni tự trở thành ngôi phạm vũ huy hoàng. Với nếp sống giản dị, nghiêm trì giới luật, lòng từ bi bao dung, lại chuyên ròng xiển dương tam học Giới, Định, Tuệ, nên Ni trưởng được rất nhiều đệ tử xuất gia lẫn tại gia kính mến và tìm đến xin học đạo. Ni trưởng viên tịch, để lại cho đời tập bút ký Vì sao tôi đi tu và tập thơ lưu niệm Huyền Tông thi tập.

Ni trưởng là bậc cao đức trong hàng Ni giới thời cận - hiện đại. Ni trưởng viên tịch để lại sự kính tiếc vô biên cho môn đồ pháp quyến và Tăng Ni Phật tử khắp nơi.

Thích Tuệ Nhật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 7160)
Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng.
08/04/2013(Xem: 4963)
Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”. Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
08/04/2013(Xem: 5475)
Giờ đây, kính xin Ban Tổ Chức cho phép chùa Thiên Minh – Huế chúng con có đôi lời tác bạch trước Giác Linh Cố Hòa thượng. Ngưỡng bái bạch Giác Linh Cố Hòa Thượng! Tháng 08 tiết mùa thu xứ Huế, khí trời chưa lạnh nhưng lòng chúng con se thắt, buồn lạnh hơn mỗi khi tưởng kính đến Hòa Thượng. Hôm nào đây, tại Huế, chúng con nghe tin Hòa Thượng sắp xả báo thân, đêm dài chúng con không ngủ, lo lắng từng phút giây. Thế rồi sự hồi hộp lo âu đó đã đến... Khi điện thoại reo, chúng con nhấc máy lên thì được khẩn tin Hòa Thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch. Từ Cố Đô Huế xa xôi, lòng chúng con thật bàng hoàng thống thiết. Ôi thật là!
08/04/2013(Xem: 12110)
Thế là gần một phần năm thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày vị ân sư của chúng tôi là Hoà thượng Tâm Như Đạo Giám Trí Thủ viên tịch. Đây là một mất mát to lớn không những đối với bản thân những người đã thọ ân Hoà thượng mà còn đối với đạo pháp và dân tộc.
01/04/2013(Xem: 7552)
Đây là tài liệu do cố thi sĩ Bùi Giáng ghi chép ngay trong cuốn sổ tay của chúng tôi vào một buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 tại chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn.
29/03/2013(Xem: 7615)
Đức Đại Lão Hòa thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn Chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên. . .
29/03/2013(Xem: 6404)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
29/03/2013(Xem: 4386)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 4449)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 4288)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567