Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỷ niệm nghe HT Thích Minh Châu thuyết pháp

07/09/201207:48(Xem: 5322)
Kỷ niệm nghe HT Thích Minh Châu thuyết pháp


htthichminhchau

Trước tin Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu viên tịch, tôi xin thành kính có bài ghi lại kỷ niệm phước duyên được nghe ngài thuyết pháp.

Đó là thời điểm những năm 1978, 1979… Vào lúc ấy, Tổng vụ Hoằng Pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức thuyết pháp hàng tuần vào lúc 15h chiều chủ nhật tại trụ sở của Giáo hội là chùa Ấn Quang.

Chương trình thuyết pháp được tính toán rất cân đối, có Phật học cơ bản (lúc bấy giờ gọi là Phật học tinh yếu, Phật học phổ thông), Phật học nâng cao (đi sâu vào các bộ kinh), Phật học ứng dụng (tìm hiểu các tác phẩm văn học chịu ảnh hưởng Phật giáo)… Trong đó, có việc cân đối giữa giáo lý, kinh tạng Bắc Tông và Nam Tông.

Riêng giáo lý, kinh tạng Nam tông thì do hai vị phụ trách (xin phép được gọi theo giáo phẩm lúc bấy giờ) là Thượng tọa Thích Hộ Giác và Thượng tọa Thích Minh Châu.

Thượng tọa Thích Minh Châu phụ trách giảng Trung Bộ kinh, một trong các bộ kinh tạng Pali do chính Thượng tọa phiên dịch.

Đến lúc đó, số lượng ấn bản kinh tạng Pali do Thượng tọa Thích Minh Châu phiên dịch được phát hành chưa nhiều, nên việc Thượng tọa giảng Trung Bộ Kinhđã giúp ích rất nhiều Tăng Ni Phật tử trong bước đầu tiếp xúc với kinh tạng Pali của Phật giáo Nguyên thủy.

Trong giảng khóa thời ấy, mỗi vị Thượng tọa có một phong cách giảng riêng. Ngoài số Tăng Ni Phật tử đi nghe thuyết pháp đều đặn mỗi chiều chủ nhật, còn có một số lượng Phật tử là thính chúng riêng của từng vị Thượng tọa. Đó là do Phật tử quan tâm theo đề tài, nhưng còn do việc nghe pháp phù hợp với phong cách giảng của từng vị Thượng tọa.

Thượng tọa Thích Minh Châu có phong cách giảng hết sức đặc biệt, khác hẳn với tất cả các vị Thượng tọa khác.

Điều đầu tiên đáng lưu ý là Thượng tọa Thích Minh Châu rất trang nghiêm trong việc thuyết pháp. Ngài không bao giờ ngồi trên pháp tòa, mà đứng cố định tại một vị trí trên bục giảng. Tay cầm micro của ngài cũng gần như cố định. Từ sự cố định của ngài toát ra một vẻ thành kính triệt để khi giảng về kinh Phật.

Thượng tọa Thích Minh Châu cũng không bao giờ pha trò trong khi thuyết pháp. Do đó, nếu không quen nghe, thì sẽ thấy không sinh động, có phần buồn ngủ. Nhưng khi đã quen nghe thì hiểu đó là sự nghiêm túc của ngài khi thuyết pháp.

Ngài cũng rất ít khi giảng rộng ra ngoài ý kinh và giải thích là e có khi sai với ý Phật. Việc bám sát kinh điển trong thuyết pháp của Thượng tọa Thích Minh Châu lúc bấy giờ là đến từng câu, từng chữ. Ngài thuộc lòng Trung bộ kinhkhi dẫn lời kinh có đoạn lặp lại thì ngài dẫn luôn cả đoạn lặp lại, không tự ý lược bớt đi cho đỡ dài dòng, rườm rà. Như thế, ngài tôn trọng văn kinh đến từng chút một.

Lúc đó, số người nghe Thượng tọa Thích Minh Châu thuyết pháp có phần nào đó không đông như đối với các vị Thượng tọa khác. Vì nghe thuyết kinh tạng nguyên thủy với đặc điểm lời văn lặp lại như vậy thì tất nhiên là rất khó khăn trong việc nghe, dễ thấy rối và nhàm chán.

Tuy vậy, cử tọa nghe Thượng tọa Thích Minh Châu lúc bấy giờ thuyết pháp rất chọn lọc, có nhiều nam giới, nhiều người ghi chép.

Trong bối cảnh như vậy, những thời thuyết pháp của Thượng tọa Thích Minh Châu thường ngắn hơn một chút so với các thời gian thuyết pháp của các vị Thượng tọa khác.

Thượng tọa rất hiểu tâm lý người nghe khi nghe thuyết giảng kinh tạng Pali nguyên thủy trong tinh thần bám sát lời kinh như vậy.

Đã hơn 30 năm, tôi vẫn còn nhớ buổi Thượng tọa Thích Minh Châu giảng về Sư tư hống đại kinh. Thượng tọa đứng nghiêm trang, cố định, một tay cầm micro. Và cứ đứng trong một tư thế như vậy mà thuyết giảng cho hết bài pháp.

Lời kinh như thấm sâu vào Thượng tọa, cứ vậy mà dẫn lại chính xác, không cần văn bản cầm tay. Lúc đó, tôi thấy thật hạnh phúc, vì được nghe giảng kinh từ chính người dịch kinh, với sự am hiểu có một không hai đối với kinh văn.

MT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/12/2010(Xem: 6839)
Xin cầu nguyện cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Tác giả mang ơn sâu đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ và Giáo Sư Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát vì các công trình nghiên cứu và dịch thuật của hai thầy mà tác phẩm này đã dựa vào để tham khảo; và đối với bổn sư tác giả là Thiền Sư Thích Tịch Chiếu. Tác phẩm này được đặc biệt dâng tặng tới các thế hệ trẻ, và phổ quát dâng tặng cho tất cả chúng sinh.
16/12/2010(Xem: 4723)
Lời Phát Biểu của HT Huyền Quang tại Tang Lễ Ôn Đôn Hậu ngày 3-5-1992
10/12/2010(Xem: 7691)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
04/12/2010(Xem: 4617)
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác thường.
25/11/2010(Xem: 23461)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
24/11/2010(Xem: 9408)
Tiểu sử nhà văn Quách Tấn
15/11/2010(Xem: 7023)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6602)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567