Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một bài thơ ít người biết được của Ôn Già Lam

22/10/201009:15(Xem: 12064)
Một bài thơ ít người biết được của Ôn Già Lam
htthichtrithu
Tưởng niệm 25 năm
ngày Hòa Thượng Thích Trí Thủ viên tịch (02/4/1984-2009)
MỘT BÀI THƠ ÍT NGƯỜI ĐƯỢC BIẾT CỦA ÔN GÌA LAM


Tâm Không Vĩnh Hữu


Vào khoảng các năm 1972–1974, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, thường được Tăng Ni-Phật tử gọi cung kính gần gũi là “Ôn Già Lam”, đang trong thời gian dài hoằng pháp tại Nha Trang và các tỉnh miền Trung, Ôn tạm an trú trên chùa Hải Đức, nơi có Phật học viện Trung Phần, trên ngọn đồi Trại Thủy. Khoảnh vườn và thềm hiên phía trước tịnh thất của Ôn dần dà trở thành một hoa viên nho nhỏ với nhiều cây cảnh hoa lá đẹp lạ, là nhờ ở bàn tay chăm sóc thương yêu của một vị cao tăng đức độ nhân từ.

Một ngày nọ, Ôn nảy ra ý tưởng xây một hòn non bộ trên một cái hồ nhỏ thả cá bảy màu. Theo sự hướng dẫn của Ôn, các thầy Minh Thông và Chơn Trí đã bắt tay vào thực hiện xong một hòn non bộ có hình dáng dài và cong theo hình chữ S. Hình ảnh của quê hương đất nước đã hiển hiện. Ôn hài lòng, gọi đó là hòn non bộ “Bản đồ Việt Nam”. Từ khi có hòn non bộ, Ôn thường hay dành thời giờ rỗi rảnh để chăm sóc, trang trí, điểm xuyết thêm những cảnh vật nhỏ cho tác phẩm tâm đắc ấy, và đôi lúc Ôn cũng có những giây phút tĩnh lặng đứng ngắm nhìn hình dáng của đất Mẹ với vẻ đăm chiêu trăn trở…

Và, thi phẩm “Vịnh bản đồ Việt Nam”của Ôn Già Lam được ra đời. Bài thơ này rất ít người được hay biết đến. Chỉ những ai được thân cận, gần gũi với Ôn, và yêu văn chương thi phú thì mới biết rõ và còn nhớ đến hôm nay. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm ngay được một tấm lòng yêu nước thương dân, một nỗi niềm ưu tư khắc khoải của bậc chân tu luôn hướng về một ngày mai thanh bình an lạc khắp ba miền tổ quốc.

Từ trong Tăng nhân uy nghiêm, Thi nhân lộ diện, từng chữ từng câu như rút từ ruột gan, từng ý từng tứ như chắt lọc từ cái Tâm đã thấm nhuần đạo hạnh, những con chữ như từng giọt máu đào thay cho mực đen uyển chuyển từng nét trên giấy trắng, đọc lên nghe sao vừa hào sảng lại vừa bâng khuâng day dứt:

Dấn thân phiêu bạt giang hồ
Chạnh lòng quê Mẹ dư đồ Việt Nam
Kìa thắng tích, nọ danh lam
Máu xương trang trải, ai làm nên khung?
Đúc vun khí tiết hào hùng
Hai vai gánh nặng Quang Trung, Nguyễn Hoàng
Trường Sơn một dãy hiên ngang
Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu
Non sông gấm vóc mỹ miều
Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương
Dù cho Nam-Bắc đôi đường
Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà
Sớm hôm hướng nẻo Phật Đà
Sắc Không tâm sự niềm xa nỗi gần
Mong sao giữ vẹn mười phần
Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông
Gấm non gương nước trăng lồng
Đạo Vàng- Dân Tộc chiếu hồng muôn Xuân…


Bài thơ “Vịnh bản đồ Việt Nam” của Ôn lặng lẽ ứng tác, sau đã được các thầy Minh Thông và Chơn Trí cho khắc và phết sơn nguyên văn lên một tấm bia đá được chở từ Núi Sạn (Đồng Đế) mang lên đặt cạnh hòn bộ. Sau ngày đất nước thống nhất, thỏa nguyện “bốn phương một nhà”, Ôn rời khỏi chùa Hải Đức, vào hoằng pháp tại Tu viện Quảng Hương Già Lam ở Gò Vấp- Thành phố Hồ Chí Minh, để lại sau lưng một hòn non bộ độc đáo cùng một thi phẩm tuyệt diệu.

Thời gian trôi đi, Ôn Già Lam cao đăng Phật quốc, rồi chùa Hải Đức cũng trải qua nhiều đổi thay, qua đợt sửa chữa này đến cuộc đại trùng tu khác… Hòn non bộ “Bản đồ Việt Nam” không còn hiện hữu trong khuôn viên ngôi chùa xưa nữa, và bia đá khắc bài thơ của Ôn cũng từ đó không biết đã trôi dạt đi về nơi đâu?

May sao:

Trăm năm bia đá dẫu mòn
Ngàn năm thi phẩm vẫn còn truyền lưu”

Hàng hậu sinh hậu bối chúng ta vẫn còn được diễm phúc biết đến bài thơ hiếm quý của một bậc Danh Tăng Việt Nam!

Tâm Không Vĩnh Hữu
(viết lại theo lời kể của Nữ sĩ Tâm Tấn)


VIẾT TIẾP VỀ BÀI THƠ
VỊNH BẢN ĐỒ VIỆT NAM
CỦA CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ

Khi Nội San Vô Ưu số 36 (05-2009) “Kính Mừng Phật Đản-PL: 2553” được phát hành, tôi đến vấn an và không quên mang vài tập theo để kính biếu Nữ sĩ Tâm Tấn. Nữ sĩ xem thấy có đăng bài viết tưởng niệm Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ thì rất vui, rất mừng, và nhận những tập Nội san một cách trân trọng quý kính.

Ba hôm sau, tôi nhận được điện thoại của Nữ sĩ, bà nói rằng cần trao đổi một vài điều về bài thơ “Vịnh bản đồ Việt Nam”. Ngay tức tốc, tôi đã có mặt tại nhà Nữ sĩ để nghe lời chỉ giáo. Nữ sĩ nói: “Bài viết hay lắm, trang trọng lắm, đăng vào thời điểm có thể rất nhiều người quên tưởng nhớ đến Ôn, nhưng rất tiếc lại thiếu … chính xác!’. Tôi hơi bị bất ngờ, “choáng”, vì tôi rất “kỵ” cụm từ “thiếu chính xác” khi gắn bó với “nghiệp” cầm bút viết báo 20 năm qua. Không đợi tôi hỏi, Nữ sĩ giở tập Nội san Vô Ưu đã được đặt trên bàn sẵn từ trước, lật ra đến trang có bài viết tưởng niệm Ôn Già Lam, chỉ vào bài thơ “ Vịnh bản đồ Việt Nam”, nói:

- Con đã viết rất hay trong bài rằng “… từng chữ từng câu như rút từ ruột gan, từng ý từng tứ như chắt lọc từ cái Tâm đã thấm nhuần đạo hạnh, những con chữ như từng giọt máu đào thay cho mực đen uyển chuyển từng nét trên giấy trắng…”, vậy thì mình không được phép làm thay đổi, viết sai trật bất cứ một chữ nào trong bài thơ của Ôn. Ở đây, tôi thấy bài thơ khác với nguyên bản đến mấy từ, làm dở cho bài thơ giảm đi một phần giá trị, làm mất đi sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ của một “cao tăng -thi nhân”…

Tôi như đang co rúm người lại, ngồi lắng nghe Nữ sĩ chỉ ra những “hạt sạn” cần phải chỉnh lại cho chính xác, như sau:

- Câu thứ 3: “Kìa thắng cảnh, nọ danh lam”, Ôn Già Lam không dùng “thắng cảnh” (cảnh đẹp nổi tiếng) mà là “thắng tích” (di tích lịch sử nổi tiếng).

- Câu thứ 6: “Hai vai gánh vác Quang Trung, Nguyễn Hoàng”, Ôn không dùng “gánh vác” (gánh lấy công việc khó khăn, nặng nề) mà là “gánh nặng” (nói về một quãng ở trên vai, như trong thơ Nguyễn Công Trứ: “Giang sơn một gánh giữa đồng”).

- Câu thứ 14: “Sắc Không tâm sự đường xa nỗi gần”, Ôn không hề dùng “đường xa” mà là “niềm xa” đi cặp với “nỗi gần” (nỗi niềm gần xa), bởi nếu dùng “đường xathì phải dùng “nẻo gần” mới đúng cặp, mà dùng “đường nẻo gần xa” thì … dở, hỏng cả câu thơ!

Tôi ghi chép vào sổ tay, cảm ơn Nữ sĩ, rồi xin cáo từ để trở về nhà kiểm tra ngay lại bản thảo bài viết tay, so lại với bản thảo trên máy vi tính, thì biết là mình bị mắc lỗi. Đến giờ này, tôi vẫn chẳng hiểu nổi thần hồn của mình để đâu khi viết lại bài thơ của Ôn mà lại “tự ý” đánh sai đến 3 từ trong bài. Một sai sót đáng trách! Và, sự sai sót này cũng là một bài học quý giá nhắc nhở cho người cầm bút rút kinh nghiệm để những lần sau thận trọng hơn, chính xác hơn.

Tác giả bài viết xin cung kính cúi đầu tạ lỗi trước giác linh Ôn Già Lam, chân thành xin lỗi Nữ sĩ Tâm Tấn cùng bạn đọc ở khắp “đường xa nẻo gần”.

Bài viết ngắn này xin được phép thay cho lời đính chính của Ban biên tập Nội san Vô Ưu, được kết thúc bằng bài thơ “Vịnh bản đồ Việt Nam” của Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ đã sửa chữa hoàn chỉnh:

Dấn thân phiêu bạt giang hồ
Chạnh lòng quê Mẹ dư đồ Việt Nam
Kìa thắng tích, nọ danh lam
Máu xương trang trải, ai làm nên khung?
Đúc vun khí tiết hào hùng
Hai vai gánh nặng Quang Trung, Nguyễn Hoàng
Trường Sơn một dãy hiên ngang
Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu
Non sông gấm vóc mỹ miều
Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương
Dù cho Nam-Bắc đôi đường
Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà
Sớm hôm hướng nẻo Phật Đà
Sắc Không tâm sự niềm xa nỗi gần
Mong sao giữ vẹn mười phần
Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông
Gấm non gương nước trăng lồng
Đạo Vàng- Dân Tộc chiếu hồng muôn Xuân…

Tâm Không Vĩnh Hữu


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13535)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7712)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18614)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5281)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7317)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4387)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17212)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8195)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4676)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5446)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567