Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức vua Trần Nhân Tông: Người để lại bao lưu luyến cho đời

10/08/201100:49(Xem: 4327)
Đức vua Trần Nhân Tông: Người để lại bao lưu luyến cho đời

KỶ NIỆM 700 NĂM NGÀY MẤT CỦA ĐỨC VUA TRẦN NHÂN TÔNG
NGƯỜI ĐỂ LẠI BAO LƯU LUYẾN CHO ĐỜI
Lâm Tuyền

Lịch sử dân tộc VN không có nhiều vị vua có được sự ghi chép đầy đủ về sự mến mộ của người dân sau khi đã mất như Vua Trần Nhân Tông. 50 năm cuộc đời, nhà vua để lại bao lưu luyến cho những người đương thời và hậu thế... - nhận định của GS-TS Lê Mạnh Thát - Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo VN tại TPHCM.

Từ 26-29.11, tại Thiền viện Trúc lâm Yên Tử, Giáo hội Phật giáo VN, Viện Khoa học xã hội VN, UBND tỉnh Quảng Ninh sẽ tổ chức hội thảo khoa học "Vua - Phật Trần Nhân Tông và thời đại nhà Trần và đại lễ kỷ niệm 700 năm ngày mất của ngài". Nhân dịp này, chúng tôi có cuộc trao đổi với GS Thát - thành viên BTC hội thảo.

Thưa, có thể gọi GS bằng danh xưng "Nhà Trần Nhân Tông học" được không?

- Chúng tôi không dám nhận. Thế kỷ 20, những học giả lớn của nước ta đều tham gia nghiên cứu ngài, cụ thể là Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn; ngoài ra, có những chuyên gia về thời Trần như Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Huệ Chi, một số nhà nghiên cứu khác với các bài viết... Trước đó, TK 19 có Thiền sư An Thiều.

Vì sao GS chú tâm nghiên cứu ngài?

- Thời trung học, đọc sách về lịch sử Phật giáo VN của thầy Mật Thể, chúng tôi bắt đầu quan tâm tới ngài. Trong thời gian du học nước ngoài, chúng tôi cũng lưu ý sưu tầm tài liệu về Trần Nhân Tông.

Có thể nói, chúng tôi đã góp phần vào quá trình nghiên cứu tác phẩm của ngài bằng việc tìm thấy, dịch 22 văn thư ngoại giao từ bản chép tay Tứ khố toàn thư thời Vua Càn Long. Những văn bản này có giá trị lớn, là những văn kiện mở đầu cho đường lối "Vừa đánh-vừa đàm" của dân tộc ta.

Thưa, làm thế nào để hiểu đúng tinh thần các văn bản, diễn giải chính xác để thế hệ sau có thể tham khảo, học hỏi, tự hào?

- Quá trình đi từng bước một. Trong nghiên cứu văn bản cổ, có những quy ước chung về học thuật, cụ thể như, từ đó, cấu trúc câu văn đó, trong ngữ cảnh như thế phải hiểu như thế, cùng nhau nghiên cứu như thế.

Trong bài "Lên núi Bảo Đài", vua có viết: "Vạn sự thuỷ lưu thuỷ/Bách niên tâm ngữ tâm". Ta có thể hiểu: Muôn việc như nước chảy xuôi/ Chuyện trăm năm chỉ mình hiểu lòng mình...

Theo chúng tôi, Trần Nhân Tông là một vị vua cảm thấy tính bức xúc của việc đề ra một giải pháp vừa có lợi cho nước cho dân, vừa có ích cho đạo.

Phật giáo VN đã hình thành truyền thống riêng: Tiếp thu lý tưởng, thông điệp của Phật giáo Ấn Độ, các vị tăng lữ ta áp dụng vào tình hình thực tế của đất nước, phù hợp với yêu cầu đời sống của con người của từng thời điểm lịch sử.

Vua Trần Nhân Tông đã làm được điều này. Do đó, có thể nói, Vua - Phật là một đặc trưng của Phật giáo VN. Chúng ta nên chú ý: Ngay hình ảnh của vua hiện được thờ phụng tại Yên Tử, chùa Bảo Lâm và hình ảnh trong bản in gỗ của Ngô Thì Nhiệm thì vẻ tiên phong đạo cốt cũng rất khác nhau. Theo chúng tôi, con người Trần Nhân Tông hoà nhuần nhuyễn ba hình ảnh này.

Thưa, quan điểm của GS về vua?

- Đúc kết thứ nhất: Coi tác phẩm "Cư trần lạc đạo" là một trong những văn bản xưa nhất của tiếng Việt hiện có. Bộ từ vựng của nó gồm cả thảy 1.688 hạng từ, đây có thể được coi như cuốn từ điển tiếng Việt nho nhỏ TK 13-14.

Nó thể hiện rõ nét tinh thần "Hoà quang đồng trần" ngài tiếp thu từ người thầy tinh thần của mình - người bác ruột Trần Quốc Tung - Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Đúc kết thứ hai: Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, thiên tài chính trị, thiên tài quân sự lỗi lạc.

Vua tiếp thu, vận dụng lời khuyên "Chớ bảo người không đáng" - có thể hiểu là nguyên tắc "Nói với ai cái gì, thế nào, lúc nào" của Tuệ Trung Thượng Sĩ để mở hai hội nghị quan trọng trước khi đánh trận: Hội nghị Diên Hồng với các bô lão: Nên hoà hay nên đánh và Hội nghị Bình Than với các tướng lĩnh: Đánh như thế nào.

Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi rực rỡ nhờ vào tài chỉ huy của ngài và sự lãnh đạo của nhiều tướng tài nước ta thời đó. Chúng ta có thể học được từ ngài bài học về lòng khoan dung đối với những kẻ chiến bại sau chiến tranh. Nghiên cứu sự nghiệp văn trị, võ công của ngài, có thể nói, thời đại ngài trị vì là thời đại hội nhập sâu, rộng của đất nước ta...

- Xin cảm ơn ông.

Lâm Tuyền
(Lao động)

11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10905)
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết - Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap - Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
10/04/2013(Xem: 8748)
Hòa Thượng Thích Tắc Thành - Trình bày: Chiếu Quang và Hoàng Lan
10/04/2013(Xem: 6067)
Hòa thượng thế danh Võ Văn Nghiêm, pháp danh Giác Trang, hiệu Hải Tràng thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông, đời thứ 41, sinh năm Giáp Thân (1884) tại làng Tân Quí, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn. Thân phụ là cụ ông Võ Văn Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tín. Ngài sinh trưởng trong một gia đình tín ngưỡng Tam Bảo thuần thành. Thân phụ Ngài là một vị hương chức trong làng, lúc tuổi ngũ tuần xin từ chức để xuất gia hiệu là Thanh Châu, đến 75 tuổi được phong Giáo thọ, sáng lập chùa Vạn Phước tại làng Tân Chánh, huyện Hốc Môn, Sài gòn. Ngài có hai anh em trai, người anh cả xuất gia được tấn phong Hòa thượng, hiệu Chơn Không.
10/04/2013(Xem: 5044)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
10/04/2013(Xem: 5802)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh thuộc dòng thiền Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận, Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðéc miền Nam nước Việt (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp), sinh Năm Ất Hợi (1935) Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 20. Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu đều kính tin Tam Bảo.
10/04/2013(Xem: 9341)
H.T. Thích Nhật Minh hiệu Vĩnh Xuyên thuộc dòng Phi Lai đời thứ 41, sau cầu pháp với Thiên Thai Thiền Giáo Tông được ban pháp tự Nguyên Quang, thế danh là Đặng Ngọc Hiền, sinh năm Kỷ Sửu (1949) tại xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Thân phụ là Cụ ông Nguyễn Văn Tá, Thân mẫu là Cụ Trần Thị Ngọc Anh, Hòa Thượng là con út trong gia đình có bốn anh em, mới hơn một tháng tuổi Hòa Thượng đã phải mồ côi mẹ nên được gửi cho Cô ruột là Cụ bà Nguyễn Thị Đền pháp danh Tâm Đền tự Diệu Hoà.....
10/04/2013(Xem: 5749)
Hòa Thượng húy Lê Thùy, pháp danh Thị Năng, tự Trí Hữu, hiệu Thích Hương Sơn, sinh năm Quí Sửu (1912) tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn (Hòa Vang) tỉnh Quảng Nam trong một gia đình Nho học và tin Phật. Thân phụ: Lê Cát, Thân Mẫu: Kiều Thị Đính, có mười hai người con; Ngài là con thứ bảy trong gia đình.
10/04/2013(Xem: 7657)
Đại lão Hòa Thượng THÍCH HUỆ QUANG, húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 01 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.
10/04/2013(Xem: 7861)
Tổ đình Từ Hiếu và Môn đồ Pháp quyến vô cùng kính tiếc báo tin: Hòa thượng húy thượng TRỪNG hạ HUỆ hiệu CHÍ MẬU, trú trì Tổ đình Từ Hiếu - thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế,
10/04/2013(Xem: 8822)
Hòa Thượng thế danh Nguyễn Xuân Đệ,sinh ngày 20-10-1930,thân phụ của ngài là cụ ông Nguyễn Nhạc P.D Như Thiện, thân mẫu của ngài là cụ bà Huỳnh Thị Hoài P.D Thị Lân, Ông Bà có ba người con : hai người con gái và ngài là người con trai duy nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567