Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông Vị Hoàng Đế, Thiền Sư, Thi Sĩ

09/08/201102:18(Xem: 3644)
Trần Nhân Tông Vị Hoàng Đế, Thiền Sư, Thi Sĩ


TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ, THIỀN SƯ, THI SĨ
Nguyễn Hữu Sơn

Nghiệm sinh nửa thế kỷ trên cõi đời, Trần Nhân Tông (1258-1308) đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng đất nước, phát triển tư tưởng Phật giáo dân tộc và là một trong những tác giả đi đầu trong việc sáng tác thơ phú bằng chữ Hán và chữ Nôm.

Với tầm vóc danh nhân văn hóa, hình ảnh Trần Nhân Tông đã tỏa sáng trên tư cách một vị hoàng đế sáng suốt, vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và để lại những áng thi ca thấm đậm lẽ đạo tình đời.

Sinh ra giữa thời hào khí Đông A đạt tới đỉnh cao, ông cùng với vua cha Trần Thánh Tông và toàn dân Đại Việt đã lãnh đạo nhân dân nước Đại Việt đập tan hai cuộc xâm lược của những đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh (vào các năm 1285, 1287-1288).

Với việc tổ chức hội nghị Diên Hồng và Bình Than, ông trở thành hiện thân của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc quyền độc lập dân tộc.

Trong thời điểm vận nước vào lúc nguy nan, ông đã cho khắc câu thơ: Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ - Hoan, Diễn còn kia chục vạn quân (Cối Kê cựu sự quân tu ký - Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh) vào thuyền Ngự để động viên quân sĩ và khẳng định niềm tin vào ngày chiến thắng.

Trở về Chiêu Lăng làm lễ dâng thắng trận, ông viết hai câu thơ nổi tiếng, thể hiện niềm tự hào và khẳng định sức mạnh dân tộc: Xã tắc hai phen chồn ngựa đá - Non sông ngàn thuở vững âu vàng (Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã - Sơn hà thiên cổ điện kim âu)...

Và phải nói rằng, ông cũng là người trực tiếp điều binh khiển tướng để củng cố vững chắc vùng biên giới phía tây và phía nam đất nước.

Trong thời bình, ông thực hiện chủ trương "khoan sức dân", mở rộng sản xuất, đưa ra chính sách thi cử, tuyển dụng nhân tài tiến bộ, thúc đẩy nền kinh tế - văn hóa dân tộc phát triển ổn định.

Với tầm nhìn xa rộng, ngay cả sau khi đã nhường ngôi cho con và bản thân làm Thượng hoàng (1293), Trần Nhân Tông vẫn đích thân đi đánh dẹp nơi biên ải, trực tiếp giám sát, khuyên bảo vua Anh Tông, cắt đặt công việc chính sự, đến bảy năm sau (1299) mới đi khắp nơi thuyết pháp, sang tận Chiêm Thành rồi mới lên hẳn Yên Tử tu Phật, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm.

Đặt trong tương quan giữa đời và đạo, mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền, sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá khái quát về Trần Nhân Tông: "Vua nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân"...

Tất nhiên đây là ý kiến dựa trên quan điểm Nho giáo và đến nay chúng ta cần nhận diện khách quan, đúng mức hơn những đóng góp của Trần Nhân Tông đối với lịch sử Phật giáo nói riêng và di sản tư tưởng tinh thần dân tộc nói chung.

Trước hết cần khẳng định thái độ rành mạch của ông trong quan niệm về đời và đạo, khi nào cần "hòa quang đồng trần" một lòng gắn bó với sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước của cả dân tộc, khi nào có thể chuyên tâm với kinh sách và con đường hoằng dương Phật pháp.

Trên quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta có thể khẳng định vị thế Trần Nhân Tông trên tư cách vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, người có khả năng thâu thái những giá trị tinh thần Phật giáo từ bên ngoài để sáng tạo nên một Thiền phái bản địa, nội sinh trên cơ sở thực tiễn xã hội và mạch nguồn tư tưởng văn hóa dân tộc.

Trải qua trường kỳ lịch sử, tinh thần Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vẫn được phát huy và đến nay tiếp tục phát triển, có được ảnh hưởng mạnh mẽ trong nước và mở rộng ở nhiều Thiền viện trên thế giới.

Về sự nghiệp sáng tác, Trần Nhân Tông còn để lại trên ba mươi tác phẩm, trong đó có các bài tán, minh, thơ chữ Hán và hai bài phú chữ Nôm.

Các sáng tác của Trần Nhân Tông trải rộng diện đề tài từ dòng thơ chiến trận đến tâm sự buồn vui đời thường, từ vận mệnh quốc gia đến nỗi niềm người khuê phụ, từ lối thơ xướng họa đến tức sự, từ thơ bang giao đến vịnh cảnh non sông tươi đẹp, từ tiếng nói bậc đế vương đến sâu thẳm chất Thiền...

Chỉ đọc nhan đề các bài thơ cũng thấy bước chân ông đã đi qua nhiều miền xứ sở, từ miền quê Thiên Trường (Nam Định) đến động Vũ Lâm (Ninh Bình), hương Cổ Châu, chùa Thần Quang (Bắc Ninh), Châu Lạng (Bắc Giang), từ một cuộc Tây chinh đến hồ Động Thiên - Yên Tử (Quảng Ninh)...

Ông vui với một nhành mai, bâng khuâng trong một sớm mùa xuân, một chiều trước cánh đồng làng, một ngày thu nơi non cao chùa vắng, một sự hòa nhập nội tâm trong cõi thiền trầm tư sâu lắng.

Đặc biệt với hai tác phẩm Phú ở cõi trần vui đạo (Cư trần lạc đạo phú) và Bài ca được thú lâm tuyền thành đạo (Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca), Trần Nhân Tông đã trở thành một trong những thi nhân Việt Nam đầu tiên sử dụng chữ Nôm để sáng tác thơ ca, khơi mở cho dòng thơ Quốc âm của dân tộc phát triển mạnh mẽ trong suốt các giai đoạn sau này.

Tròn 700 năm kể từ ngày Trần Nhân Tông về cõi Tây phương cực lạc, nơi chùa Lân - Hoa Yên - Yên Tử vẫn thăm thẳm một mầu xanh. Giữa ngày chớm đông, dòng người từ bốn phương tìm về non thiêng Yên Tử, tìm về chốn tâm linh, thắp nén nhang thành kính tưởng nhớ danh nhân văn hóa Trần Nhân Tông - mẫu hình tác gia Hoàng đế - Thiền sư - Thi sĩ tiêu biểu cho cả một thời đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc.

Nguyễn Hữu Sơn
(phattuvietnam.net)



11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 8030)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-l0-1917), tại làng Mỹ An Hưng ( Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp). Thân phụ là ông Nguyễn văn Cân và thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Truyện. Cụ Ông qua đời lúc H.T lên ba, Cụ Bà cũng theo Ông lúc Ngài vừa lên bảy.
09/04/2013(Xem: 6688)
Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Đàng Trong và Đàng Ngoài.
09/04/2013(Xem: 11026)
Hòa Thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sanh năm Giáp Dần (1941), tại Xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, Tỉnh Ðịnh Tường (Nay là Tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa Thượng theo họ mẹ, cũng là người con thứ ba trong gia đình gồm hai anh em.
09/04/2013(Xem: 6630)
Ôn Từ Đàm (Hòa thuọng Thích Thiện Siêu) với tôi vốn không có duyên nghĩa thầy trò; mặc dù, vào đầu thập niên 1960, Ôn là Giáo thọ tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang trong khi tôi là một học tăng ở đó. Những tháng năm này, tôi là nguòi được theo học trường Võ Tánh nên thời khóa sinh hoạt của tôi không bị câu thúc chặt chẽ; và vì vậy, ít có cơ hội gần gũi với các bậc thầy lớn như Ôn.
09/04/2013(Xem: 6315)
Trúc Lâm Đại sĩ là vua thứ tư nhà Trần, con của Thánh Tông, lên ngôi ngày 12 tháng 2 năm Mậu dần (1278). Trước khi Đại sĩ ra đời, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy thần nhân đưa cho hai lưỡi kiếm bảo : "Có lệnh của Thượng giới, cho phép ngươi được chọn lấy". Bỗng nhiên được kiếm, Thái hậu bất giác rất vui, nhân đó có thai. Những tháng dưỡng thai, nhà bếp dâng thức gì Thái hậu cứ dùng như thường, chẳng cần kiêng cử mà thai cũng chẳng sao.
09/04/2013(Xem: 8087)
Đọc qua các Thiền sư Việt Nam từ xưa đến nay, chưa thấy một người nào đã chinh phục được các hàng vương tôn, quý tộc, khiến cho họ tín nhiệm, quy y và ủng hộ hết mình như Thiền sư Pháp Loa. Sư là một con người tích cực hoạt động, suốt đời tận tụy phục vụ đạo pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Điều đặc biệt quan tâm của Sư là ấn hành Đại Tạng kinh, do đó đã đề xuất, tiến hành và in xong bộ Đại Tạng kinh Việt Nam. Ngoài ra, Sư đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thống nhất Phật giáo, thiết lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất đầu tiên của Việt Nam, và Sư là người thứ nhất đúng ra thiết lập sổ bộ Tăng, Ni và tự viện trên khắp cả nước.
09/04/2013(Xem: 6674)
Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên.
09/04/2013(Xem: 6095)
Truyền thống Phật giáo Việt Nam từ truớc đến nay vốn thiên về Phật giáo Phát triển hay Đại thừa; mãi đến năm 1959 lần đầu tiên bộ kinh Trường A Hàm do Hòa thượng Thích Thiện Siêu phiên dịch được xuất bản thì Phật giáo Nguyên thủy mới được các Phật tử chú ý đến. Mặc dù bộ kinh này nằm trong Hán tạng thuộc hệ thống Phật giáo Phát triển, nhưng tinh thần của nó thì tương quan mật thiết với 5 bộ Nikàya trong giáo lý Nguyên thủy.
09/04/2013(Xem: 5451)
Phương Tây có câu tục ngữ "Hoạn nạn làm lớn con người". Phương Đông cũng có câu danh ngôn tương tự "Ngậm cay đắng trong cay đắng mới làm con người trên loài Người". Trường hợp của Trần Thái Tông sao mà ứng với hai câu này đến thế?
09/04/2013(Xem: 5481)
Hòa thượng Thích Thiện Châu Nguyên Đạo (Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu) Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567