Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chất Phật Và Chầt Vua Trong Con Người Của Phật Hoàng Trần Nhân Tông

09/08/201102:09(Xem: 5466)
Chất Phật Và Chầt Vua Trong Con Người Của Phật Hoàng Trần Nhân Tông


CHẤT PHẬT VÀ CHẦT VUA
TRONG CON NGƯỜI CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
Pháp Đăng

'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.

Theo những tài liệu nghiên cứu về Trần Nhân Tông cho thấy: lịch sử Việt Nam chú trọng nói về thời gian làm vua, tức “chất vua” của Ngài nhiều hơn; còn lịch sử Phật Giáo Việt Nam thì chú trọng về thời gian sau khi Ngài xuất gia, tức “chất Phật” nhiều hơn.

Lại có chỗ chia rạch ròi ra hai giai đoạn là khi Ngài làm vua thì chỉ đơn thuần là một vị vua, và khi Ngài làm Tổ thì chỉ đơn thuần là một vị Tổ. Vì có sự thiên lệch đó nên vô tình đã làm giảm đi chất “Vua – Phật” toàn bích của Ngài.

Có thể nói, Đức Trần Nhân Tông khi đang làm vua thì đã có “chất Phật” trong đó, và khi xuất gia tu hành làm Phật thì vẫn ẩn hiện “chất vua” của một vị minh quân thiên tử.

Vậy, Trần Nhân Tông là một vị vua có “chất Phật”, hay vị Phật có “chất vua”, đó là điều chúng ta cần suy gẫm và phân tích cho thấu đáo để hiểu được một cách toàn diện về con người của Ngài.

Theo quyển “Thế thứ các triều Vua Việt Nam” của Nguyễn Khắc Thuần (NXB Giáo Dục – 2000) ghi rằng:

Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308)
- Họ và tên: Trần Khâm, Phật Kim.
- Vua là con trưởng của Trần Thánh Tông, thân mẫu là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu.
- Vua sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258).
- Được lập làm thái tử năm Giáp Tuất (1274).
- Được truyền ngôi ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần (1279).
- Ở ngôi 14 năm (1279 – 1293), nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông để làm Thái thượng hoàng 6 năm (1293 – 1299).
- Năm 1299, Trần Nhân Tông xuất gia tu hành và là người sáng lập ra Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử ở nước ta.
- Vua mất ngày 01 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), thọ 51 tuổi .
- Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt hai niên hiệu:
+ Thiệu Bảo: 1279 – 1285
+ Trùng Hưng: 1285 - 1293

Còn theo “Đại Việt sử ký toàn thư” của sử thần Ngô Sĩ Liên thì cuộc đời Trần Nhân Tông chia làm ba giai đoạn, gói gọn trong 18 chữ: “Nhân Tông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi”.

Như vậy, ta thấy vẫn chưa có tài liệu nào khắc hoạ một cách toàn diện về con người của Ngài với đầy đủ ý nghĩa của hai chữ “Phật Hoàng” mà người đời thường tán tụng.

Trước tiên, chúng tôi xin nói về giai đoạn trước khi xuất gia của Ngài. Qua các sử liệu ghi lại, khi vua Trần Nhân Tông sinh ra, nước da Ngài có màu vàng ròng, nên được vua cha gọïi là “Kim Phật” (tức Phật Vàng). Vậy nên, khi mới sinh ra, Ngài đã mang chủng tướng tốt của Phật, mà có lẽ, vua cha Thánh Tông đã đoán biết trước được nên mới đặt thế.

Thái tử sinh ra ánh sắc vàng
Khuôn mặt ngời lên đạo hào quang
Đại Việt lừng danh Vua nước Nam”.
(Kim Phật – Hoàng Quang Thuận)

Vậy “chất Phật” đã ẩn hiện trong Ngài từ lúc mới sinh ra. Rồi khi lớn lên giữa chốn kinh đô Thăng Long phồn hoa đô hội, Ngài vẫn tỏ rõ tâm đạo phi phàm của mình.

Năm 16 tuổi, Ngài muốn xuất gia nhưng vua cha không thuận và lập Ngài làm thái tử. Rồi hai lần xin nhường ngôi lại cho em là Đức Việp nhưng phụ hoàng Thánh Tông vẫn không chấp thuận và đã truyền ngôi lại cho Ngài.

Qua đó, chúng ta có thể khẳng định được một “chất Phật” đã hiện hữu rất sâu đậm trong con người của vua Trần Nhân Tông từ khi Ngài còn nhỏ đến khi làm vua.

Sở dĩ Ngài lên ngôi là vì lòng hiếu kính, tuân lệnh của vua cha, giống như thái tử Tất-Đạt-Đa khi xưa vì hiếu thuận với vua Tịnh Phạn mà phải cưới công chúa Da-Du-Đà-La và sinh La-Hầu-La vậy. “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”, thế nên, một vị minh quân không thể không hiếu thảo được.

Lúc này, ta có thể nói Trần Nhân Tông là một vị vua mang “chất Phật”. Thế mới hay, nếu không có sự làm vua này thì sự “vứt bỏ ngai vàng như chiếc dép rách” của Ngài có ý nghĩa to lớn chăng? Và danh từ “Phật Hoàng” mà mọi người tán tụng Ngài có tồn tại không?

Phải có giai đoạn làm vua này thì giai đoạn làm Phật lúc sau mới thật sự cao cả, và càng làm cho giá trị về con người của Ngài thêm tôn quý. Cũng nhờ có làm vua mà Ngài mới có thể áp dụng đạo Phật vào để giáo hoá toàn dân.

Vậy nên, gẫm lại gương Ngài mà chúng ta tự cảm thấy hổ thẹn. Ngài là một vị vua ngồi trên chín bệ, phải lo cho quốc gia, cho thiên hạ với trăm mối ngổn ngang nhưng Ngài vẫn hiểu Đạo một cách sâu sắc và thấu đáo.

Còn như chúng ta đây có “trăm mối ngổn ngang” như Ngài không mà lại than rằng không có thời gian để học đạo, tu đạo, gẫm xem có đúng hay chăng?

Trong thời gian 14 năm trị vì của Trần Nhân Tông, có thể nói, đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nhưng cũng là giai đoạn mang đậm hào khí của dân tộc, một triều đại được sử sách ca ngợi là một trong triều đại anh minh, thái bình và thịnh trị nhất trong lịch sử nước ta.

Sở dĩ có được một triều đại như thế là do sự anh minh và tài đức của vua Trần Nhân Tông. Ngài biết áp dụng giáo lý đạo Phật vào công cuộc giữ nước, bình thiên hạ. Chính vì lãnh hội được tinh thần “dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm” (lấy cái muốn của mọi người làm cái muốn của mình, lấy tâm của mọi người làm tâm của mình) của ông nội là vua Trần Thái Tông mà vua Trần Nhân Tông đã triệu tập hai cuộc hội nghị dân chủ vô tiền khoáng hậu trong lịch sử là hội nghị Bình Than (1282) và hội nghị Diên Hồng (1285), huy động sức mạnh toàn dân chống giặc Nguyên Mông xâm lược.

Có thể thấy, đó là lần đầu tiên trong lịch sử thể hiện tinh thần dân chủ và bình đẳng. Nếu chẳng phải là một vị vua thấm nhuần giáo lý thì chẳng làm được vậy. Phải chăng Ngài huy động chiến tranh đó là không có “tâm Phật”, là phạm giới sát?

Bởi đây không phải là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà là cuộc chiến tranh chống xâm lược để giữ yên bờ cõi, bảo vệ sự bình yên của dân tộc và của nước Đại Việt ngàn đời sau. Đó chính là “sát nhứt miêu, cứu vạn thử”, chẳng phải tâm lượng của bậc trượng phu thì làm sao làm được như vậy.

Hơn nữa, đây là ý của toàn dân chứ không phải ý kiến chủ quan nơi Ngài. Ngày xưa, vua Lương Võ Đế ở Trung Quốc khi bị giặc Hầu Cảnh kéo quân vây thành Kiến Khang, quần thần xin vua cho đánh nhưng vua không cho, ra lệnh bế thành, tụng kinh cầu nguyện cho giặc lui. Kết quả giặc chẳng lui mà vua lại bị mất nước và giết chết.

Nếu xét hành động của vua Lương Võ Đế – một ông vua mộ đạo – thì có đúng với tinh thần tích cực nhập thế của Phật giáo không? Trái lại, vua Trần Nhân Tông biết lúc nào chưa cần đánh và lúc nào nên đánh mà vẫn không rời đạo lý. Đó là vì đã hiểu sâu được tinh thần uyển chuyển, sống động, nhập thế tích cực, “tuỳ duyên nhi bất biến, bất biến nhi tuỳ duyên” của đạo Phật.

“Sống thiền” chẳng phải là sống nơi rừng núi không người, không “tiếp duyên xúc cảnh”, mà “sống thiền” là sống giữa nơi “động” mà lòng luôn “bất động”. Kể cả lúc lâm triều, lúc ngồi trên yên ngựa vẫn gọi là “sống thiền” vậy!

Nói về đạo đức của vua Trần Nhân Tông, toàn dân đều ca tụng Ngài là bậc “minh quân chi chúa”, thương dân như con. Chẳng những thế, đối với bọn giặc Nguyên Mông, Ngài vẫn muốn đem chí dung tâm để thay cường bạo, lấy đại hùng từ bi để chiến thắng hung tàn.

Trong lịch sử còn ghi lại: “Khi bộ tướng của Ngài chém được đầu Toa Đô đem đến dâng trước thuyền rồng, thương cho viên tướng giặc vì vô minh mà lâm vào tội ác đến nỗi chết không toàn thây, Ngài liền cởi áo bào đang mặc quẳng cho bọc thủ cấp của Toa Đô”.

Chính tấm lòng nhân đạo, đức độ thấm đượm “chất Phật” trong con người của Ngài đã làm nên một chiến thắng vẻ vang cho dân tộc, đem lại sự thịnh trị cho đất nước Đại Việt mà ngàn đời sau, sử sách còn ca ngợi mãi:

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
(Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu).

Quả thật, nếu vua Trần Nhân Tông chẳng áp dụng giáo lý đạo Phật vào việc “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì đất nước ta có được một triều đại hùng cường như thế không?

Sử thần Ngô Sĩ Liên đã ghi nhận về Ngài như sau: “Trần Nhân Tông trên nhờ từ cung tỏ rõ hiếu đạo, dưới dùng người hiền lập nên võ công, không phải bậc nhân minh, anh minh thì làm sao được như thế!”(Đại Việt sử ký toàn thư).

Vậy cũng đủ cho ta thấy “chất vua” và “chất Phật” cùng hiện hữu trong con người của Ngài. Bởi thế, vua Trần Nhân Tông được mọi người tôn xưng bằng mỹ hiệu “Phật Hoàng” là vậy.

Đạo lý Nhân Tông sáng ngời Đông Á
Việt Nam năm châu rạng rỡ tiên rồng”.
(Phật Hoàng Trần Nhân Tông - nhạc sĩ Chúc Linh).

Ngay như lúc đang ngồi trên ngôi chín bệ, quyền uy tột bực mà Ngài vẫn biết rằng:

Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tánh
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.”
(Cư Trần Lạc Đạo Phú – hội thứ nhất)

Nếu chẳng phải một vị Phật hoá sinh thì được vậy chăng? Thế nên, khi Ngài làm vua thì cũng đã làm Phật rồi. Thử hỏi xưa nay được bao nhiêu vị vua như Ngài? “Cư trần lạc đạo” hay “cư trần bất nhiễm trần” là diệu dụng của Thiền.

Hiểu được như vậy, vua Trần Nhân Tông đã xây dựng cho toàn dân một nền luân lý đạo đức học Phật giáo thật sống động và thiết thực, không bi quan, yếm thế, mở ra một cái nhìn toàn diện và tích cực trong triều đại nhà Trần. Bởi vậy, trong cung vua Trần có một ánh sáng thiền, luôn thường chiếu mãi. Có một thi sĩ đã làm bài thơ “sống” rằng:

Sống là động mà lòng luôn bất động
Sống yêu thương mà lòng chẳng vấn vương
Sống hiên ngang giữa danh lợi chẳng màng
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.

“Thiền” là sống nơi cái “động” mà nhận ra cái “bất động” thường hằng, sống giữa trần mà không nhiễm trần, “tuỳ duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”. Như thế mới gọi là “an nhàn thể tính”. Trong giai thoại nhà Thiền có một câu chuyện:

Có một vị tăng hỏi một vị thiền sư:
- Chẳng lẽ ngày nào cũng mặc áo, ăn cơm?
Vị thiền sư hỏi lại:
- Vậy chứ ông muốn sao?
- Làm sao để không mặc áo, ăn cơm?
Thiền sư trả lời:
- Thì hãy mặc áo, ăn cơm!
Vị tăng ngơ ngác:
- Con chưa hiểu.
Thiền sư bảo:
- Thôi, cứ về mặc áo, ăn cơm đi!

“Mặc áo, ăn cơm” là những chuyện thường nhật, những chuyện sinh tử. Vậy muốn thoát khỏi sinh tử mà không tu tập ngay nơi sinh tử thì giải thoát được chăng?

Bởi vậy, thiền sư mới bảo “cứ về mặc áo, ăn cơm đi!”. Thế nên, ngay nơi sinh tử mà ngộ ra được cái vô sinh bất tử, ngay đời thường mà thấy được những diệu lý phi thường của các pháp, ngay nơi trần mới tu được cái bất nhiễm trần.

Như thế, phiền não chẳng khác bồ đề, ta bà không ngoài tịnh độ. Ngài Trần Nhân Tông cũng đã nói trong bài “Cư Trần Lạc Đạo”:

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

(Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.)

Bài thơ cho thấy “chất Phật” của vua Trần Nhân Tông được hiển bày một cách rõ rệt và thấu đáo, liễu ngộ được cái cốt lõi của thiền, đó là:

Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta”.

Có thể nói rằng, lúc này, Ngài là “tướng vua” mà “chất Phật”. Một khi đã liễu hội được cái đó thì ngai vàng, áo mão còn có ý nghĩa gì đâu. Vậy nên:

Áo mão, kim đai theo dòng nước
Chuông từ, mõ trúc, vọng chân không
Phật pháp vô biên, tâm vô lượng
Bồ đề thơm ngát, toả mười phương”.

Năm 1293, Ngài truyền ngôi lại cho Trần Anh Tông rồi đi xuất gia ở Vũ Lâm, Ninh Bình. Rũ sạch hết muôn vàn thế sự, lên núi ẩn tu, vậy có phải Ngài lánh đời, yếm thế chăng? Và “chất minh quân” của Ngài cũng chẳng còn sao?

Chẳng phải vậy! Bởi khi làm vua, Ngài đã thấm nhuần “chất Phật” và bây giờ xuất gia tu Phật, Ngài cũng vẫn còn “chất minh quân”, nhưng có điều khác là không phải biểu hiện “chất vua” đó trên khía cạnh chính trị, quốc gia thế sự mà biểu hiện trên khía cạnh đạo đức, nếp sống luân lý của toàn dân.

Đây là chỗ nhiều người hay nhầm lẫn nên chúng ta cần phải hiểu thông rành rẽ để tránh hiểu sai về con người của Ngài. Nhà thơ – tiến sĩ Hoàng Quang Thuận đã viết trong tập thơ “thi vân Yên Tử”:

Non xanh cắt tóc dứt trần duyên
Vua đến nơi đây để nhập thiền
Không phải trốn đời và yếm thế
Cứu đời, nhập thế với Phật tiên”.

Cởi áo hoàng bào, khoác áo cà sa, Ngài vẫn để mắt theo dõi từng bước đi của triều đại, chăm chút đời sống tâm linh của muôn dân. Ngài du hoá khắp nơi, khuyên chúng dân làm lành lánh dữ, tu thiện. Tuỳ từng căn cơ thượng hạ mà Ngài truyền dạy pháp tu cho mọi người được an lạc nơi tự thân. Đó chẳng phải là tư cách của một bậc minh quân lo cho dân đó sao?

Thế nên, “chất Phật” và “chất vua” cùng tồn tại trong con người của Ngài qua mọi giai đoạn của cuộc đời, chỉ có điều là ứng với từng giai đoạn thì Ngài tuỳ duyên mà ứng hiện chất ấy đậm nét hơn thôi. Mặc dù vậy, thể tánh của Ngài lúc nào cũng lặng lẽ, rỗng rang, tự tại giữa dòng đời.

“Phải quấy niệm rơi theo hoa sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm”.
(Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn).
- Sơn Phòng Mạn Hứng -

Qua bài “Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca”, ta có thể thấy hết được sự an nhiên tự tại phi phàm của Ngài, thật khó mà tả hết được:

“Kiếm chốn dưỡng thân
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỷ xả
Thanh nhàn vô sự
Quét tước đài hoa
Thờ phụng Phật trời”.

Tóm lại, Trần Nhân Tông là một vị vua hay một vị Phật đều như một, không khác, đều là một Bậc giác ngộ được lý thiền, tu hành giải thoát. Chúng ta học Ngài không phải nơi vua, cũng chẳng phải nơi Phật, mà là nơi sự giác ngộ, giải thoát của Ngài.

Ngày xưa, Ấn Độ có một vị thái tử xuất gia tu thành Phật, thì Việt Nam lại có một vị vua đi tu thành Tổ, khai sinh ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam.

Đây là niềm tự hào cho cả dân tộc Việt Nam nói chung và cho Phật Giáo Việt Nam nói riêng đối với các nước bạn. Gương sáng của Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn truyền mãi cho ngàn đời sau biết về một vị “Vua Phật Việt Nam”.

Được làm vua chăn dân trăm họ
Được làm Phật cứu độ muôn loài
Ngạn cổ ngàn xưa đâu có sai
Vua Trần đã hoá thành Vua Phật
Tây Phương kề cận Phật Như Lai”.
(Vua Phật – Hoàng Quang Thuận)

Pháp Đăng
(thuongchieu.net)


11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2021(Xem: 6950)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
23/04/2021(Xem: 4752)
Hoà thượng Thích Từ Hương thế danh là Nguyễn Mạnh Trừng. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1928 tại thôn Vĩnh An, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.Trong một gia đình phú nông. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tiêm. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Chai pháp danh Nhật Cang. Từ lúc ra đời cho đến năm 1954, Hoà thượng ở tại quê nhà theo học tiểu học và sinh sống tại địa phương.
23/04/2021(Xem: 4562)
Hòa thượng Đạo hiệu Thích Thiện Duyên, thế danh Võ Đình Như, sinh ngày 20/10/1926 tại thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Ngài là con thứ 3 trong gia đình. Thân phụ và thân mẫu của Hòa thượng là cụ ông Võ Toản pháp danh Nhựt Toàn và cụ Bà Đặng Thị Chức pháp danh Diệu Phát. Gia đình Ngài có truyền thống Phật giáo thuần thành. Với túc duyên nhiều đời, từ nhỏ, Ngài thường được bà nội dẫn đến chùa làng tụng kinh niệm Phật. Gặp lúc Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Hòa từ chùa Trà Can, Tháp Chàm – Phan Rang về tổ chức lễ truyền Tam Quy Ngũ giới tại chùa Tịnh An, Phù Cát, Bình Định, Ngài sớm thọ Tam quy Ngũ giới trong dịp này.
11/04/2021(Xem: 8922)
Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, Kính thưa tất cả quý Phật tử trong và ngoài nước, Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng xin trân trọng kính báo: Thượng Toạ Thích Tuệ Giác, Hội trưởng Hội Thiền Học Việt Nam Hải Ngoại, Viện trưởng Tổ Đình Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Đã viên tịch vào lúc 4:30 chiều Thứ Bảy ngày 10 tháng 4 năm 2021 (nhằm 29 tháng 2 năm Tân Sửu) Tại Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng, Quận hạt San Diego, CA, Hoa Kỳ. Trụ thế 62 năm, 31 Hạ Lạp Chương trình Tang Lễ của Thượng toạ Thích Tuệ Giác sẽ được kính báo trong thời gian sớm nhất. Chúng con nhất tâm xin cung thỉnh Chư Tôn Thiền Đức và mời gọi quý Phật tử cùng chung lòng cầu nguyện. Thay mặt BTC Tang Lễ xin được trân trọng kính báo. Tỳ kheo Thích Tuệ Tỉnh
31/03/2021(Xem: 4638)
Trễ hẹn trong tang lễ, rồi cúng 21 ngày và 49 ngày cố nhạc sĩ Hằng Vang ( 1936 – 2021 ), một số Anh Chị em cựu huynh trưởng giữ đúng lời hứa, rất uy tín, lòng tự dăn lòng rằng nhất định sẽ họp mặt để cùng nhau thắp cho vị nhạc sĩ nén hương tưởng nhớ, tri ân những dòng nhạc mà phần lớn đã theo chân nhiều thế hệ Gia Đình Phật Tử ( GĐPT ) và các đoàn thể thanh thiếu niên Phật giáo, nối tiếp nhau cho đến tận hôm nay. Và ngày đó phải là ngày cúng chung thất 49 ngày, nhất định không hẹn xa xăm nửa. Sau khi loại trừ nhiều trở ngại, cộng vào nh74ng thuận duyên chung, tất cả đã chọn ngày chủ nhật 21/03/2021 9 nhằm ngày mùng 9 tháng hai năm Tân Sửu vừa rồi
10/03/2021(Xem: 4916)
Cố Hòa Thượng thế danh Đặng Hữu Tường, pháp húy Nguyên Phước, tự Quang Thể, hiệu Đạt Minh; nối pháp đời 44 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 10 pháp phái Liễu Quán. Ngài lâm thế ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922) tại làng An Hải, quận III (nay là phường An Hải, quận Sơn Trà), thành phố Đà Nẵng; chánh quán làng Quảng Lăng, xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ Ngài là cụ ông Đặng Văn Vịnh (tức Nuôi) và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ớt. Ngài là trưởng nam trong một gia đình có năm anh em gồm ba trai và hai gái. Năm lên 9 tuổi, thân phụ qua đời, từ đó mẫu thân một mình tần tảo nuôi con. Trong thời gian này, Ngài được mẫu thân gởi đến Thầy Tư Tri (Như Tín) – trụ trì chùa An Hải lúc bấy giờ – nhận cho nhập Chúng tu học.
10/03/2021(Xem: 7753)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
01/03/2021(Xem: 26693)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 21 giờ 20 phút ngày Thứ Bảy 22/02/2020 nhằm ngày 29/01 Âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2563 tại Chùa Từ Hiếu, Phường 1, Quận 8, Sài Gòn. Trụ thế: 93 năm. Chương trình tang lễ sẽ được công bố trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính nguyện cầu Đức Đại Lão Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc và sớm tái sanh trở lại thế giới Ta Ba để tiếp tục công cuộc hoằng Pháp lợi sanh. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
23/02/2021(Xem: 4994)
Tin buồn Cư sĩ Đỗ Đình Đồng; Pháp danh: Chơn Trí đã an nhiên trút hơi thở tại Hoa Kỳ vào lúc 01 giờ 02 phút khuya ngày 17 tháng 2 năm 2021 (mồng 6 tháng giêng năm Tân Sửu). Hưởng thọ 76 xuân. Trong một cơn bạo bệnh, ông bị máu đông trong động mạch phổi. Bác sĩ cho ống thông vào để phá máu đông nhưng tim ông đã ngừng đập khiến ông phải thở bằng máy và đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng sau một ngày một đêm trên máy thở. Ông ra đi đột ngột khi đang dịch dang dỡ một quyển sách khác về giáo lý đạo Phật. Ông thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, không biểu hiện sự đau đớn, và có hiền thê, hiếu tử hiền tôn bên cạnh niệm Phật cầu nguyện.
03/02/2021(Xem: 19256)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]