Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Thích Mật Thể

24/06/201100:24(Xem: 8424)
Thiền Sư Thích Mật Thể


thiensuthichmatthe_01
TIỂU SỬ THIỀN SỬ THÍCH MẬT THỂ

Điều Ngự Tử TÍN NGHĨA

1.- Thân thế :

Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa.

Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.

Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.

2.- Sự Nghiệp Tu Học :

Năm Bính Thìn (1916), lên 5 tuổi, theo Nho học.
Năm Giáp Tý (1924), được 12 tuổi, xuất gia đầu Phật tại chùa Diệu Hỷ.
Năm Mậu Thìn (1928), được 16 tuổi, theo học chúng Từ Quang và thọ giáo với ngài Giác Bổn.
Ngài Giác Bổn nhận thấy ngài quá thông minh xuất chúng, có nhiều năng khiếu, có nhiều chí khí nên đưa vào học chúng Trúc Lâm.
Năm Canh Ngọ (1930), tổ Giác Tiên cho thọ Sa di Thập giới .
Pháp danh : Tâm Nhất,
Pháp tự : Mật Thể,
Thuộc dòng Lâm tế Chánh tông đời thứ 43.

Năm Quý Dậu (1933), làm giảng sư của hội An Nam Phật Học.

Từ năm 1933 đến năm 1938, đạy học các trường Phật học của sơn môn Thừa Thiên.

Năm Đinh Sửu (1937), được gởi qua tu nghiệp ở Phật học viện Tiêu Sơn (Trung Hoa), dưới sự chủ trì của thiền sư Tinh Nghiêm.

Năm Mậu Dần (1938), chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, ngài không được phép ở lại Trung Hoa lâu hơn, đành phải về nước.

Năm 1941-1942, cho ra đời tác phẩm Phật Giáo Yếu Lược và Phật Giáo Khái Luận. Cùng năm 1942, tập thơ “Xuân Đạo Lý” do ngài biên khảo với ý nghĩa chủ xướng là : Xuân Là Sứ Mạng Phật Hóa.

Trong tác phẩm nầy, còn đề cập đến vấn đề : Phật giáo với hiện đại, trong đó : Văn hóa đạo Phật có thể mở đường thoát cho một nhân loại đang sống trong hoài nghi, đau khổ, chán đời và bê tha, trụy lạc …

Năm Tân Tỵ (1941), được mời vào giảng dạy ở Phật học đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh

Năm Quý Mùi (1943), cho ra đời tác phẩm : Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (Tân Việt Hà Nội xuất bản).

Năm Giáp Thân (1944), ngài thọ Tam đàn Cụ túc giới tại Đại giới đàn Thuyền Tôn do ngài Giác Nhiên làm Đàn đầu Hòa thượng. Ngài đổ Thủ khoa.

Năm Ất Dậu (1945), nhận chức Trú trì chùa Phổ Quang, gần dốc Bến Ngự . Nơi đây Tổ Giác Tiên đã từng trông coi một thời trước khi khai sơn Trúc Lâm Đại Thánh tự.

Năm Bính Tuất (1946), tham gia phong trào Phật giáo Cứu quốc, rồi ra Bắc

Vì chiến tranh của hai miền trên 30 năm, nên sự hành hoạt của ngài ở trong vòng khiêm tốc . Được biết ngài tịch vào năm Tân Sửu (1961), thọ 49 tuổi (*). Hiện mộ phần được an táng tại nghĩa trang Nghệ An. (Khi thống nhất đấ nước, người viết bôn tẩu ra hải ngoại ; tuy nhiên, được biết môn phái Tổ đình Trúc Lâm, thầy Thanh Toàn là pháp đệ của người viết đã cùng các cháu gọi Ngài bằng chú ruột là ông Nguyễn Hữu Tôn, ở Đà Nẵng, đã cùng nhau ra tận nghĩa trang nầy để cải táng và đưa nhục thân ngài về lại tổ đình Trúc Lâm).

3.- Sự Nghiệp Văn Học :

Các tác phẩm của ngài trước tác gồm có :

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược,
Phật Giáo Dị Giảng,
Thế Giới Quan Phật Giáo,
Đại Thông Vô Lượng Nghĩa,
Xuân Đạo Lý (thơ)

Trên đây là những tác phẩm mà ngài đã trước tác hay dịch thuật. Hiện tất cả đều còn lưu truyền trong quần chúng.

Đặc biệt sách của ngài đã được thiền sư Phước Huệ ở tổ đình Thập Tháp, Bình Định có lời tán ngữ ở đầu quyển.

Thiền sư viết như sau :

“…Giữa mùa Xuân năm Quý Mùi (1943), Pháp sư Mật Thể vào Nam thăm, lấy trong tay áo bản thảo cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Lược viết bằng quốc văn đưa cho tôi mà nói :Đây là công trình sưu tầm biên khảo nhiều năm của con, xin Hòa thượng đọc và chứng minh cho.

Tôi tiếp nhận bản thảo mà đọc. Mỗi khi đêm vắng dưới ngọn đèn khêu cao, cầm bản thảo nơi tay, tôi tự nói một mình là pháp sư tuy đã theo học với tôi nhiều năm tháng nhưng tôi chưa biết được hết chí hướng và nguyện vọng của ông . Trong cuộc đời tu học, thì ra không lúc nào ông không lưu tâm đến sự nghiệp hoằng pháp bằng phương tiện phiên dịch và trước thuật.

“… Từ khi tới Đông Độ, Phật giáo đã đi vào nước Nam ta một ngàn mấy trăm năm rồi ; trong thời gian ấy đạo tổ và Thánh Tăng kế tiếp nhau xuất hiện, công đức ấy chiếu sáng trên lịch sử, ta chẳng nên để cho nó phai mờ mai một. Ngày nay, có được cuốn sách nầy thì chẳng những là Pháp sư có công với Phật giáo mà còn có công với Phật học nữa. Vì vậy mà tôi rất được vui sướng và an ủi, vô lượng vô biên, viết mấy dòng nầy để tán dương…”

(Lời tán dương nầy nguyên bằng chữ Hán, Giáo sư Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Sử Lược quyển ba, trang 186).

Ngài thường kết bạn tâm giao với các vị như : Văn hào Nhất Linh, Văn hào Khái Hưng, Học giả Phạm Quỳnh, Cụ Trần Văn Giáp, Cụ Phan Văn Hùm,… để trao tặng cho nhau những áng thơ hay, hoặc luận đàm giáo lý Phật đà.

Sau đây là bài thơ thiền của ngài còn lưu truyền mà quần chúng Phật tử tại cố đô Huế và miền Trung đều thuộc lòng :

Trăng sáng sau khi trời vừa tạnh,
Ngoài hiên văng vẳng tiếng chuông đưa,
Tiếng chuông ngân ngợi trong đêm vắng,
Thử hỏi hồn ai đã tỉnh chưa ?

Tư Tưởng Của Thiền Sư Mật Thể

Thiền sư Mật Thể, người có chí nguyện lớn. Ông chủ trương phải : “Cải tổ Sơn môn” và đã xuất bản một tài liệu với nhan đề : “Cải Tổ Sơn Môn Huế”. Cũng như Thiện Chiếu ở miền Nam, ông rất nóng lòng vì bước chân đi chậm chạp trong quá trình đổi mới chế độ Tăng già. Ông cũng va chạm rất nhiều trong thời gian vận động, nhưng khác với Thiện Chiếu ông được đào tạo trong Sơn môn hồi còn bé thơ và căn bản Phật học của ông rất vững vàng. Hán văn của ông rất vững. Ông đã tự mình học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Ông là một trong mấy vị Tăng sĩ đầu tiên biết làm thơ mới. Chữ Pháp ông học đủ để đọc các bài nghiên cứu về Phật giáo sử viết bằng Pháp văn. Ông rất ưa thơ Hàn Mặc Tử, không biết tại sao ?

Tháng giêng năm 1946, khi chính phủ lâm thời tổ chức Tổng tuyển cử, ông đã can đảm đứng ra ứng cử ở Thừa Thiên. Ông đã đắc cử làm Đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây là lần đầu tiên một vị Tăng sĩ Việt Nam trực tiếp đi vào đường chính trị.
Ngày xưa, vào các thời Đinh, Lê, Lý và Trần các thiền sư đã từng làm chính trị, nhưng, chỉ đứng trong cương vị cố vấn cho nhà vua mà thôi. Việc ra ứng cử Quốc hội của Mật Thể phản chiếu lòng yêu nước và sự ủng hộ cách mạng của giới Phật tử trẻ tuổi. Tuy nhiên, hành động ấy cũng được nhận xét như không được chín chắn bởi một vài vị Tôn túc trong Sơn môn và một vài giới cư sĩ, … Cũng năm 1946, ông được mời làm Chủ tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc Thừa Thiên.

Trước khi rút về chiến khu, Mật Thể đã gặp một số anh em Phậ t tử đồng chí tại chùa Thế Chí ở Đại Lộc. Họ ăn một bữa cơm chay thân mật cuối cùng với nhau ở chùa nầy và bàn tính về việc tương lai. Họ bàn luận về việc chống Pháp, chuyện tương lai Phật giáo và cố nhiên là về những đụng chạm và khó khăn mà người Phật tử gặp phải trong hang ngũ Kháng chiến. Họ đồng ý là người Phật tử phải có mặt trong lãnh vực tranh đấu, phải phân thân để có mặt. Tại vùng bị chiếm đóng, nếu được thì dựng lại chùa, quy tụ Phật tử để sinh hoạt và để tạo lập phong trào. Tại vùng Kháng chiến, phải tìm cách có mặt trong cơ quan lãnh đạo để bênh vực, che chở cho thanh niên Phật tử phục vụ trong hàng ngũ Kháng chiến.

Thiền sư Mật Thể cho biết rằng việc bảo vệ và xây dựng phong trào Phật giáo bên cạnh người Cộng sản là một công việc rất khó. Nhưng ông bảo người Phật tử không thể không có mặt. Bữa cơm trưa kéo dài đến chập tối. Mật Thể lấy trong bọc áo tất cả số tiền thu được của tạp chí Giải thoát và trao lại cho các bạn trẻ ở lại vùng bị chiếm đóng, dặn dò lấy số tiền đó làm vốn liếng để xuất bản một tờ báo tại Huế để tiếp tục công trình của Giải Thoát. Rồi cuối cùng một vị Tăng sĩ trẻ tên là Thiện Mãn và bốn người Phật tử cư sĩ khác, theo ông lên đường đi Quảng Trị. Những người trẻ về thành phố Huế hôm đó, có các Tăng sĩ Đức Trạm (chùa Ba La), Mãn Giác (chùa Thiên Minh), Thiên Ân (chùa Châu Lâm), và các cư sĩ Đinh Văn Nam và Cao Hữu Đính.

Thích Mật Thể theo Kháng chiến cho đến năm 1961 thì mất. Ông viên tịch tại Nghệ An, thọ 49 tuổi (*). Trong thời gian 1957-1961, vì chống lại chính sách đè nén Phật giáo của chính quyền miền Bắc, ông đã bị quản thúc tại Hà Tĩnh và Nghệ An, ông bị cô lập hoàn toàn. Ở trong một căn nhà lá miền quê, ông không được phép di chuyển đi đâu cả và người trong làng trong xóm cũng không được tới viếng thăm. Thỉnh thoảng có người đi ngang qua ném lén vào sân cho ông một túi gạo nhỏ, gọi là để tiếp tế cho ông trong lúc ngặt nghèo. Vậy mà trong thời gian ấy, ông đã sáng tác được cuốn : “Thế Giới Quan Phật Giáo”. Bản thảo tác phẩm nầy đã lọt vào miền Nam và được tạp chí Vạn Hạnh xuất bản năm 1967. Bản in nầy có mang lời tựa của Thích Đức Nhuận, chủ bút tạp chí Vạn Hạnh.

Thế giới quan Phật giáo là một tác phẩm nói đến sự cần thiết của đạo Phật trong tư trào chính trị, văn hóa và kinh tế hiện tại. Ông thẳng thắn phê bình sự nông cạn của chủ thuyết Duy vật. Theo ông, Phật giáo không phải là Duy vật, cũng không phải là duy tâm. Ông nhấn mạnh đến nguy cơ của những nhà làm chính trị thiếu căn bản đạo đức. Ông nói rằng chủ thuyết của chủ nghĩa xã hội “rất hay”, nhưng vì căn bản của lý thuyết nầy đã sai lầm “nhận vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu” cho nên, “Xã hội chủ nghĩa trở nên nông cạn, chỉ thấy hạnh phúc của con người ở cơm ăn áo mặc”.

Theo ông : Xét tận nguồn gốc Xã hội chủ nghĩa tổ chức kinh tế khéo giỏi đến đâu mà không có phương pháp để thủ tiêu lòng tham sân si cùng bản ngã nhỏ hẹp kia, thì nhân loại cũng không bao giờ hết khổ được.”
Với tư cách Đại biểu Quốc hội, Mật Thể đã từng che chở bênh vực cho các Tăng sĩ và cư sĩ hoạt động quanh tờ Giải Thoát vào những năm 1946 và 1947, chính nhờ ông mà tờ Giải Thoát được tồn tại trong một năm trời . Cũng trong hướng bảo vệ Phật giáo, Phạm Hữu Bính, trong bài Phật giáo bị lợi dụng đã nhắc nhở tới :
“Một số người trước mặt thì tỏ ra tán dương mà sau lưng thì ngấm ngầm công kích Phật giáo”.

Ông muốn nói đến những người ngoài miệng thì nói đến tôn trọng tự do tín ngưỡng nhưng trong thâm tâm thì lại cho rằng Phật giáo là nguy hại, rằng người theo đạo Phật là người bị thực dân ru ngủ và lợi dụng. Vấn đề thực dân lợi dụng Phật giáo, Phạm Hữu Bính nhắc lại phong trào phục hưng Phật học trong những năm 1930 và lập lại những bài của báo Viên Âm thời ấy về hai động lực chính của sự chấn hưng, đó là :

1.- Sự tiến hóa của phái trí thức ta phương diện luân lý và,

2.- Sự cần thiết của đạo đức và tinh thần Phật giáo bên cạnh sức mạnh lạnh lùng và mù quáng của khoa học.

Ông nói mục đích của ông không phải là để đối đáp lại : Những công kích lặt vặt và những cử chỉ thiếu thành thật mà là cùng độc giả Giải Thoát xem xét đạo Phật có hại hay có lợi gì cho quần chúng.
“Nếu có hại, chúng ta nên triệt để bài trừ. Nếu có lợi, chúng ta nên cố gắng duy trì, khuyến khích và nếu ai “Lợi dụng” Phật giáo, chúng ta nên khuyến khích họ “Lợi dụng” thêm”.
Ông nói đến tinh thần bình đẳng triệt để và vị tha triệt để trong đạo Phật và nhắc đến sự kiện Phật giáo chưa bao giờ gây nên tai hại cho cuộc sống, chưa bao giờ bạo lực để bành trướng thế lực tôn giáo mình, chưa bao giờ chia rẽ quốc dân đồng bào, chưa bao giờ đứng về phía mạnh để hiếp yếu.

Cuối cùng ông nói :
. “ Chúng ta không sợ Phật giáo bị lợi dụng. Chỉ sợ người đời không biết lợi dụng Phật giáo mà thôi. Chính vì lẻ ấy mà Phật Thích Ca đã suốt đời giảng giải giáo lý, và các Phật tử đủ trí đủ sức không nề gian lao nguy hiểm dù luôn luôn tìm đủ phương tiện để cho ai cũng biết triệt để lợi dụng Phật giáo để đưa mình và đưa người đến nơi hạnh phúc chân thực.”


Ghi chú: (*) Theo môn phái và bà con thân thích cho biết thì thiền sư Mật Thể thọ 51 tuổi . Theo năm sinh 1912 và năm mất 1961. Tài liệu của Việt Nam Phật Giáo Sử Lược quyển ba, giáo sư Nguyễn Lang viết thì ngài thọ thế 49 tuổi.

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược
Phật Học Dị Giản.
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa
Phật Giáo Khái Luận
Phật Giáo Yếu Lược.
Cải Tổ Sơn Môn Huế.
Xuân Đạo Lý
Mật Thể Văn Sao (do Lệ Như sưu tập)
Thế Giới Quan Phật Giáo

Điều Ngự Tử TÍN NGHĨA

10-01-2008 08:45:23

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2022(Xem: 9861)
Cố trưởng lão Tịnh Đức thế danh Tôn Thất Toản, sinh ngày 01/08/1944 tuổi Giáp Thân tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Gia đình dòng tộc Hoàng gia, thuộc Đệ bát hệ, Đệ nhị phòng, dòng dõi Chúa Nguyễn Phúc Thụ (Túc Tông Hiếu Đinh Hoàng Đế). Thân phụ là ông Tôn Thất Nhường, sinh năm 1897, mất năm 1982, thọ 85 tuổi. Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Bàng, sinh năm 1903, mất năm 1963, thọ 61 tuổi. Gia đình có 5 anh em, Ngài là người con út. Xưa, gia đình ngụ tại Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Sau vào ở tại phường Thạc Gián, Đà nẵng.
16/01/2022(Xem: 5044)
Ni Trưởng Thích Nữ Đạt Hương, vừa viên tịch tại Chùa An Tường, Nha Trang, Khánh Hòa
07/01/2022(Xem: 5215)
Ni trưởng thế danh Nguyễn Thị Đầy, sinh năm 1932, tại xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, xuất gia năm 17 tuổi; thọ giới Sa-di-ni, năm 1952 thọ giới Thức-xoa tại chùa Huê Lâm (quận 11, Sài Gòn). Năm 1958, Ni trưởng theo học Trung Đẳng Phật học do quý Hòa thượng Ấn Quang tổ chức, nhập học Ni trường Dược Sư. Năm 1959, Ni trưởng tấn đàn thọ Tỳ-kheo-ni tại Dược Sư. Sau khi tốt nghiệp khóa học này, Ni trưởng được theo học dự bị khoá Đại học Vạn Hạnh (1968), được cử làm Thư ký Ni trường Dược Sư. Năm 1971, Ni trưởng theo dự học khóa thiền hàng tháng tại tu viện Chân Không (Vũng Tàu). Năm 1976, Sư bà Bạch Vân viên tịch, di chúc Ni trưởng kế thế trụ trì, kế thừa phận sự chăm sóc Ni chúng và hướng dẫn Phật tử.
30/12/2021(Xem: 7255)
Tối ngày 11/02 âm lịch (03/03/2012), vào lúc 10 giờ tối, lúc đó tôi niệm Phật ở dưới hai cái thất mà phía trên là phòng của Sư Ông. Khi khóa lễ vừa xong, bỗng nghe (thấy) tiếng của đầu gậy dọng xuống nền phát ra từ phòng của Sư Ông. Lúc đó tôi vội vàng chạy lên, vừa thấy tôi, Ông liền bảo: “Lấy cái đồng hồ để lên đầu giường cho Sư Ông và lấy cái bảng có bài Kệ Niệm Phật xuống” (trong phòng Sư Ông có treo cái bảng bài Kệ Niệm Phật). Khi lấy xuống Sư Ông liền chỉ vào hai câu: Niệm lực được tương tục, đúng nghĩa chấp trì danh, rồi Sư Ông liền chỉ vào mình mà ra hiệu, ý Sư Ông nói đã được đến đây, sau khi ngồi hồi lâu Sư Ông lên giường nghỉ tiếp.
26/12/2021(Xem: 3969)
Tổ Liễu Quán sinh ngày 18 tháng 11 năm 1667 tại làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, nay là xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên . Ngài mồ côi mẹ lúc lên 6 tuổi. Năm 12 tuổi theo cha lên chùa Hội Tôn lễ Phật. Vì cảm mến cảnh chùa nên xin cha ở lại tu học. Duyên lành đến, hòa thượng Tế Viên xuống tóc và ban cho ngài pháp danh Thiệt Diệu. Năm ngài 19 tuổi, bổn sư viên tịch. Ngài tìm đến núi Hàm Long chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) cầu học với tổ Giác Phong. Năm 1695 thọ Sa Di giới với hòa thượng Trường Thọ Thạch Liêm. Năm 1697, thọ Cụ Túc giới với hòa thượng Từ Lâm và năm 1699 ngài bắt đầu cuộc hành trình tham vấn cầu đạo khắp các thiền lâm, tâm thường suy nghĩ: Pháp nào là tối vi đệ nhất ta quyết xả thân mạng y theo pháp tu hành. Nghe chư thiền đức cho biết hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung khéo dạy pháp tham thiền. Ngài đến núi Long Sơn chùa Ấn Tôn (Từ Đàm) bái yết Hòa thượng Tử Dung cầu pháp. Tổ Tử Dung dạy pháp tham cứu công án " Muôn pháp quy về một, một quy về đâu?" . Một hôm nhân xem Truyề
18/12/2021(Xem: 4327)
Thượng Tọa Thích Phước Hựu vừa viên tịch tại Victoria, Úc Châu
16/12/2021(Xem: 4240)
Sáng qua, 22- 4, tại chùa Hội Phước (P.Nghĩa Chánh, TP.Quảng Ngãi) đã trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ 50 ngày HT.Thích Giải Hậu viên tịch. HT.Thích Trí Thắng, Ủy viên HĐTS, Phó ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Ngãi; chư tôn giáo phẩm trong Thường trực BTS, Thường trực Ban Hướng dẫn Phân ban GĐPT Quảng Ngãi, cùng đại diện chính quyền và gần 200 thiện nam tín nữ gần xa tham dự. HT.Thích Giải Hậu thế danh Đỗ Minh Đường, sinh năm Mậu Ngọ 1918 tại làng Sung Tích, xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, xuất gia năm 1935 tại tổ đình Sắc tứ Thiên Ấn, đệ tử của cố HT.Diệu Quang - Đệ lục Tổ.
15/12/2021(Xem: 6658)
Thành Kính Tưởng Niệm Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn, Viện Chủ Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
09/12/2021(Xem: 23549)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
06/12/2021(Xem: 4526)
Thông minh tam học thảy am tường Viên Chiếu thiền sư tham vấn nương Yếu chỉ thiền na thầm lãnh hội Huyền tâm thể tánh khéo thừa đương Đối cơ ứng vật thông nguồn diệu Gặp cảnh hoà tâm mở suối lương Thiền mạch tuôn trào ra mọi nẻo Non sông cẩm tú đạo soi đường .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]