Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế được tôn làm Phật

23/10/201008:09(Xem: 4577)
Trần Nhân Tông - Vị hoàng đế được tôn làm Phật

TRẦN NHÂN TÔNG
VỊ HOÀNG ĐẾ ĐƯỢC TÔN LÀM PHẬT

Giao Hưởng

Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.

Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm) sinh ngày 11.11.1258. Khi sinh ra “màu da sáng như màu vàng ròng, vì thế vua cha là Trần Thánh Tông mới gọi ngài là: Kim Phật. Bên vai phải của ngài có một nốt ruồi đen to như hạt đậu, những thức giả thời ấy tiên đoán về sau thế nào ngài cũng gánh vác việc lớn” (theo Thánh đăng ngữ lục).

Năm lên 16 tuổi (1274), Trần Nhân Tông được sắc phong làm hoàng thái tử, nghĩa là sau này sẽ nối ngôi, nhưng Trần Nhân Tông đã từ chối, hai lần thưa với Thánh Tông xin được nhường lại cho em mình là Đức Việp.

Song vua cha không đồng ý, lại “cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho ngài làm vợ”. Vào một đêm nọ, ngài trốn ra khỏi cung điện, định lên núi Yên Tử để đi tu như cuốn Thiền Tông bản hạnh lược kể: Thái tử lòng muốn tu hành. Nhìn xem phú quý trong lòng nhưng nhưng. Tuy ở điện bệ Đông cung. Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền.

Hay tin ngài rời hoàng cung vào nửa khuya, vua Thánh Tông và quần thần sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Bất đắc dĩ ngài phải trở về lên ngôi hoàng đế năm 21 tuổi (1279). Tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng ngài vẫn tự mình giữ thanh tịnh. Cứ mỗi ngày, sau giờ nhóm triều, ngài đều đến chùa Tư Phước được xây trong đại nội để tĩnh tâm, tu học.

Một buổi trưa, ngài đang nằm mơ màng, thấy một bông sen vàng to như bánh xe mọc lên từ rốn của mình, trên hoa sen ấy có đức Phật đang phóng hào quang và một người đứng bên cạnh hỏi ngài có biết đức Phật này chăng. Đó là đức Phật Biến Chiếu.

Thức dậy ngài kể lại cho vua cha nghe, Thánh Tông rất hoan hỉ xem đó là giấc mộng cát tường hiếm thấy. Từ đó, ngài càng để tâm tham học về thiền với người thầy của mình là Thượng Sỹ Tuệ Trung.

Gặp khi giặc Nguyên sang xâm lăng, ngài lãnh đạo tướng sĩ và toàn dân đánh đuổi, giữ vững cõi bờ, như câu đối ở chùa Hoa Yên trên Yên Tử nhắc đến: Dẹp giặc độ chúng sinh làm vua, làm Phật. Dạy dân tu thiền giáo yêu đạo, yêu đời.

Đến năm 35 tuổi (1293), ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, nhưng vẫn ở lại cung điện trong sáu năm để giúp Anh Tông cùng lo việc nước và chuẩn bị xuất gia. Khi thấy nền trị quốc của triều đình đã vững vàng, ngài mới quyết định rời khỏi hoàng cung, dứt áo ra đi vào tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) để lên núi Yên Tử tu khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân đại đầu-đà.

Truyền bá thiền tông Trúc Lâm

Đến 5 năm sau (Giáp Thìn 1304), ngài xuống núi lúc 46 tuổi, đi khắp nơi để khuyên dân chúng hãy dẹp bỏ những miếu thờ thần quá sức mê tín, huyền hoặc (dâm từ), chỉ cho mọi người thực hành mười điều lành (thập thiện) và vào hoàng cung để truyền giới (Bồ Tát tại gia) cho các vương công bá quan theo lời thỉnh cầu của hoàng đế Anh Tông.

Trước và trong cùng thời gian đó, ngài xây chùa, mở tịnh xá, giảng giải đường lối tu tập để tiếp độ tăng chúng bốn phương, lập giảng đường ở chùa Phổ Minh (phủ Thiên Trường), lập am Tri Kiến (trại Bố Chính)...

Nhưng quan trọng hơn cả là sự kiện xiển dương đạo pháp, gióng trống hội để bắt đầu truyền bá thiền tông Trúc Lâm ở chùa Sùng Nghiêm.

Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã được ghi lại qua tài liệu Thánh đăng ngữ lục mà hòa thượng Thích Thanh Từ - người đang phục hồi mạng mạch của thiền phái Trúc Lâm tại Việt Nam hiện nay - trích dịch như sau: “Ngài (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông) chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá thiền tông. Mở đầu pháp hội, ngài niêm hương báo ân xong, bước lên tòa.

Vị thượng thủ bạch chùy (đánh bảng mời ngài khai hội), ngài nói: Thích Ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi (thuyết pháp) mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi trên tòa này, biết nói chuyện gì đây?

(Nói rồi) ngài ngồi giây lâu, ngâm (mấy câu sau): Thân như hơi thở ra vào mũi. Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng. Đâu phải tầm thường qua một xuân.

(Ngâm xong) ngài vỗ bàn một cái, nói: Không có gì sao? Ra đây! Ra đây! Có vị tăng bước ra hỏi: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Nhận đến (thấy biết) như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là pháp? Ngài đáp: Nhận đến như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là tăng? (ngài cũng đáp): Nhận đến như xưa đều chẳng phải!”.

Tiếp đó, buổi giảng tiếp tục với cuộc đối thoại thiền giữa ngài với các thiền sinh mà học giả Lê Mạnh Thát nhận định: “Có thể nói đây là buổi giảng đầu tiên trong lịch sử (thiền Việt Nam) được ghi chép lại đầy đủ, cung cấp cho ta một điển hình về sinh hoạt diễn giảng của Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 13 (...)."

Một buổi giảng khác tại viện Kì Lân vào ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ (1306) đã được ghi lại trong Tam tổ thực lục (với những lời khai thị của ngài Trần Nhân Tông) như sau: “Này xem, đạo lớn trống rỗng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một nháy thoáng mờ dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. (...) lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu? Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy...”.

Những buổi pháp thoại ấy diễn ra đúng theo tinh thần của truyền thống thiền tông.

Những ngày cuối đời

Những ngày cuối đời của ngài Trần Nhân Tông đã được hòa thượng Thích Thanh Từ trích lược dưới đây:

Đến đêm 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) trời trong sao sáng, ngài hỏi Bảo Sát:

- Hiện giờ là giờ gì?

Bảo Sát bạch:

- Giờ Tý.
Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói:

- Đến giờ ta đi.

Bảo Sát hỏi:

- Tôn đức đi đến chỗ nào?

Ngài nói kệ đáp:

- Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

(Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như bị giải
Chư Phật thường hiện tiền).
Nào có đến đi ấy vậy.

Bảo Sát hỏi:

- Chỉ khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào?

Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:

- Chớ có mớ.

Nói xong ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, nhằm niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ 51 tuổi. Theo lời di chúc của ngài, tổ kế vị là Pháp Loa đã làm lễ hỏa táng, thu lượm ngọc xá lợi năm màu và xây tháp ở chùa Vân Yên (vua Lê Thánh Tôn về sau đổi tên chùa là Hoa Yên) trên núi Yên Tử để thờ. Vua Trần Anh Tông dâng tôn hiệu là: Đại thánh Trần triều Trúc Lâm đầu đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.

Ngài để lại một số tác phẩm, nhiều ngữ lục, chỉ thẳng tâm người, tự tu tự chứng, như ngài dạy: không thể nhờ ai cởi dây phiền não cho mình, mà phải tự mình nhận ra thanh tịnh và hạnh phúc nơi mình: Thùy phược cánh tương cầu giải thoát. Bất phàm hà tất mích thần tiên (nghĩa là: Ai trói lại mong cầu giải thoát. Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên).

Giao Hưởng
(Thanh Niên)

Bài kệ kết thúc
Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông

Cư trần lạc đạo thả
tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn
tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc
vấn thiền.

Dịch nghĩa:

Ở trần vui đạo hãy
tùy duyên,
Đói đến thì ăn nhọc
ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi
tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Địa tịch đài du cổ
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm,
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
(Thơ Trần Nhân Tông)

Dịch nghĩa:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông.
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng nhủ lòng.
Tựa lan, nâng ống sáo
Đầy ngực ánh trăng lồng.
(Ngô Tất Tố)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 13531)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 7704)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 18608)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5272)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7312)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4375)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17202)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8194)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4669)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5442)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567