Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời từ biệt Thầy

05/05/201120:31(Xem: 5682)
Lời từ biệt Thầy


lotus_3
LỜI TỪ BIỆT THẦY

 

 

Kính lạy giác linh Thầy,

Từ hôm hay tin Thầy lâm bịnh và tiếng nói yếu ớt của Thầy qua điện thoại làm con rất lo. Nhiều năm qua con cố gắng về thăm Thầy một lần nhưng ước vọng đơn sơ ấy đã không toại nguyện. Hơn hai mươi năm con xa Thầy, xa Tu viện, xa đồi núi thương yêu thưở nào. Mai này nếu được về thăm thì thầy đã ra đi biền biệt.

Trong giờ phút linh thiêng u buồn của của núi đồi Tu viện. Giờ phút đưa kim quan Thầy vào chốn an nghỉ sau cùng. Từ nơi xa xôi, con xin vọng về đảnh lễ giác linh Thầy với tất cả lòng biết ơn và nhớ thương của người học trò xa nước.

Thầy kính yêu,

Hôm nay thầy đã hóa kiếp thành những cụm mây lành bay thong dong trong bầu trời. Nơi thầy đến thầy mang bình an cho chỗ đến. Vì thầy là nước mát của biển khơi. Là lửa ấm của ngày đông. Là đất lành của cây cỏ. Là viên bảo châu trong Phật pháp. Năm mươi năm xây dựng tu viện thầy đã thể hiện trọn vẹn của một bồ tát hóa thân. Từ một đồi hoang làm chỗ dung thân cho người du thủ du thực trở thành một tòng lâm tu học danh tiếng. Thầy là đoàn tăng lữ đầu tiên khai khơn phá thạch để dựng nên tu viện ngày nay. Bao là công, bao là sức, bao là tình mà thầy đã trải ra trong suốt năm thập niên qua. Năm mươi năm của tu viện với bao thăng trầm theo thăng trầm của đất nước lửa bom. Nhưng Thầy chưa một lần từ bỏ dù trong tạm thời để ra đi lánh nạn. Lúc thịnh, lúc suy, lúc tu viện trong hoang tàn nghiệt ngã, đói khổ lầm than, thầy vẫn dang tay ra ôm tu viện vào lòng như mẹ ôm con. Thầy ơi, làm sao núi đồi này không ảm đạm được trong giờ phút tiễn thầy ra đi lần cuối.

Kính lạy giác linh Thầy,

Con là người phước duyên được làm đệ tử thầy từ thuở còn thơ. Thầy là bậc đạo sư hiếm hoi trong cuộc đời này. Thầy vĩ đại quá. Hồn thầy sáng như sao băng, vững chãi như dãy trường sơn. Thầy ơi, trong cuộc sống xa quê, xa chùa, mỗi lần con nghĩ tới thầy con chỉ biết cúi đầu sụp lạy. Thầy đã dạy cho con những bài học lớn trong cuộc đời. Thầy không dạy bằng lời. Thầy không giảng từ kinh. Thầy không lý luận với những kiến thức trong cuộc sống. Thầy dạy bằng tấm lòng từ ái thương tăng chúng bao la. Từ độ con xa thầy rồi bỏ nước ra đi, con sống nhiều nơi, học hỏi nhiều chỗ, nhưng con chưa thấy ai thương tăng chúng như Thầy. Thầy dạy chúng con bài học công hiến trọn vẹn sự sống này cho đạo pháp bằng chính sự sống và chết của thầy. Con nhớ một lần Thầy đau nặng năm 1977, Thầy gọi chúng tăng lại căn dặn. Thầy bảo nếu thầy không qua khỏi cơn bịnh này thì đừng báo cho ai biết, chôn thầy dưới một gốc cây nào đó vào ngày hôm sau. Đừng làm tháp miếu, chỉ lấy vài miếng ván thô sơ đóng hòm mà thôi. Thầy bảo thầy chưa đóng góp được gì cho đạo và đừng để tu viện phải khổ nhọc trong tang lễ của thầy. Thầy sống vô cùng đơn giản trong khi sống và chẳng muốn gì rườm rà cả khi ra đi. Bao giờ chúng con mới hiểu thấu những bài học vĩ đại này của bậc thầy kính trọng của chúng con.

Thầy ơi,

Con gọi về chùa mình hằng tuần trong bao năm qua, nhưng ít khi nào con dám tiếp chuyện với thầy. Vì mỗi lần nói chuyện với thầy là giọng thầy nghẹn ngào trong điện thoại. Thầy thường hỏi con: "bên Mỹ, chùa Quang Thiện chỉ có mình con, không thầy, không bạn, rồi ai giúp đỡ khi con bị bịnh. Con đường hoằng pháp và cuộc sống tu hành ở xứ người có nhiều khó khổ không con." Con luôn nói điều lạc quan để Thầy được an tâm, duy chỉ có điều nơi đây, con thiếu Thầy, thiếu huynh đệ thôi. Rồi giọng thầy lịm đi trong điện thoại viễn liên cho đến khi thầy cúp máy. Hôm nào hầu chuyện với Thầy qua điện thoại thì đêm ấy biến thành đêm dài xa xứ của con. Vì xa quê mới thấy quê mình đẹp nhất. Sống xa Thầy, con thấy được ý nghĩa sư - đệ tình thâm. Sống lẻ loi, con thấm thía sức mạnh hợp quần của tăng chúng một tòng lâm. Rồi hôm nay con thêm nỗi u buồn của người đệ tử mất thầy.

Kính lạy giác linh thầy,

Chúng con buồn vì mất thầy nhưng chúng con không lùi bước. Chúng con biến nước mắt thành nước mát để thêm lực cho cỏ cây tu viện. Chúng con tiếp nối ước vọng của thầy trong việc đào tạo tăng ni sinh. Chúng con nguyện học thấy để thấy Thầy có mặt trong từng viên sỏi vụn của núi đồi tu viện. Trong ánh mắt mang đầy lời nguyền của tăng sinh. Trong sự sống vì giáo pháp và hy sinh cho giáo pháp. Chúng con nguyện học Nghe. Nghe tiếng Thầy xót xa trước sự khổ của muôn sinh. Nghe niềm đau của thầy trước sự đói rách của con người. Nghe tiếng thở dài của thầy trong sự điêu linh của đạo pháp. Chúng con nguyện học sống. Sống theo Thầy trong bình dị và đơn sơ. Vui trong niềm vui lo cho tăng chúng. Buồn theo nổi buồn tăng chúng lầm than, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thiếu thầy dạy dỗ. Ngày di quan hôm nay của thầy vào đất. Đất Tu viện này sẽ thành linh địa cho ngàn sau. Chúng con đang gục đầu vào đất nghe thông điệp "hy vọng vào ngày mai" của thầy.

Thầy ơi,

Nếu năm 2001 có những đêm buồn và dài trong năm, thì đêm nay là đêm dài và buồn nhất của con. Con đến hàng giờ nơi bàn thờ của Thầy trong đêm khuya để dâng trầm thì giờ phút này ở quê nhà là ngày đưa quan thầy vào nơi an nghỉ. Giờ phút thiên thu từ biệt này, con chẳng có gì để dâng lên cúng dường Thầy ngoài mấy lời thơ như lời từ biệt của con từ bên nay bán cầu:

Từ thuở xa thầy

Vào Nam rồi tìm đường vượt biển

Đời con như những đợt sóng của chiều đông

Có những lúc đêm dài sao dài quá

Nhìn đôi tay gầy guộc mỏi mòn trông

Hai mươi năm trôi nổi vạn lần

Phố thị ấy mỗi ngày đi, sao vẫn còn bỡ ngỡ

Tóc dần bạc theo tuổi đời trăn trở

Tìm quê hương trong giấc mộng đêm dài

Trong độc thoại mới biết mình khờ khạo

Bỏ mùa xuân ôm lấy trọn mùa đông

Đêm nay xin chút lửa hồng

Xin ơn đức ấy phủ lòng xa xôi

Chân bước nhẹ nơi phương trời xứ lạ

Mà vẫn đau vì đau quá bao lần

Khi đau đớn con cúi đầu sụp lạy

Lạy ơn thầy cứu độ cho hồn con.

 

Nhất tâm đảnh lễ Nguyên Thiều Đường thượng từ Lâm tế chánh tông tứ thập nhị tuế, đệ nhất Trụ trì thượng Đồng hạ Thiện Đại Lão Hòa Thượng Bổn sư tam bái.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 8431)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8507)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10192)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14107)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8265)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16889)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11890)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16607)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12749)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
03/08/2014(Xem: 6836)
Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày. Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự. Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc). Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tô
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]