Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Gặp gỡ nhạc sĩ lão thành Hằng Vang

25/03/201109:12(Xem: 6837)
Gặp gỡ nhạc sĩ lão thành Hằng Vang


Nhac Si Hang Vang 2

ĐPNN: Là một trong những nhạc sĩ PG đầu tiên được ghi nhận công lao đóng góp cho văn hóa PG trong quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo của cố HT.Thích Thiện Hoa, NS Hằng Vang từng đoạt giải nhất cuộc thi sáng tác Phật nhạc do GHPGVNTN tổ chức, trao giải thưởng ngày 25-2-1965 tại nhà hát lớn Sài Gòn. Các trung tâm văn hóa PG trong và ngoài nước đã xuất bản hơn 20 album của NS Hằng Vang theo các hình thức cassettes-CD-VCD ca nhạc, kinh nhạc và 20 album cassettes-video-CD-VCD-DVD cũng như 8 tuyển tập ca nhạc đứng chung với nhiều tác giả khác.

Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật Nguyễn Đình Vang, pháp danh Như Niên, nguyên là Huynh trưởng GĐPTVN, Chánh Thư ký kiêm Đặc ủy Thanh niên tỉnh GHPG Phú Bổn năm 1968-1975. Nhắc đến NS Hằng Vang là nhắc đến bài ca Ánh Đạo Vàng lừng danh, đáng liệt kê vào dòng nhạc bất hủ của PGVN trong mọi thời kỳ và đi vào tâm khảm nhiều thế hệ Phật tử theo từng thời gian.

Sau gần 60 năm phụng sự Phật pháp qua âm nhạc, NS Hằng Vang vẫn một lòng giữ gìn giới hạnh trường trai và là một Phật tử lão thành, gương mẫu. Để hiểu thêm về NS Hằng Vang, An Lạc đã có cuộc trò chuyện với NS nhân cả nước đang hướng về 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Được biết sự nghiệp sáng tác nhạc Phật giáo của Nhạc sĩ có thể đúc kết thành hai giai đoạn, từ 1950-1970 và từ 1980-2010. Song song với công việc sáng tác, NS còn tham gia lĩnh vực hành chánh Phật sự và sinh hoạt GĐPT. Xin NS cho biết thêm về giai đoạn trước năm 1975.

HV: Từ năm 1958 đến năm 1960, tôi làm Trưởng tiểu ban Văn nghệ và Liên Đoàn trưởng GĐPT Cát Tường, Thành Nội Huế. Từ năm 1961 đến năm 1967 là Phó Trưởng ban Hướng dẫn - Ủy viên Nghiêm huấn-Quyền Trưởng ban Hướng dẫn GĐPT Daklak, Tổng Thư ký, Biên tập điều hành văn nghệ PG Đài phát thanh Ban Mê Thuột, phát sóng hàng tuần và những kỳ lễ lớn của PG. Từ năm 1968 đến năm 1975 là Tổng thư ký Hội Văn nghệ sĩ Phú Bổn. Đặc Ủy Thanh niên kiêm Ủy viên văn nghệ PG tỉnh Phú Bổn.

Ngoài bài hát Ánh Đạo vàng nổi tiếng và bài Lời sám nguyện được giải nhất cuộc thi sáng tác Phật nhạc năm 1965, cũng như những chùm nhạc ngắn phục vụ sinh hoạt GĐPTVN, NS cho biết có sáng tác những thể loại nào khác không?

blankHV: Tôi sáng tác nhạc, kịch từ năm 1955. Tôi có những kịch ngắn cho các buổi trình diễn văn nghệ GĐPT. Ngoài ra tôi còn sáng tác thể loại Trường ca Phật sử (Đản sanh-Xuất gia-Thành đạo) và Lửa từ bi bừng sáng (ca ngợi chư Thánh tử Đạo và Bồ tát Quảng Đức). Về kịch dài thì có Khai nguồn sáng, Thái tử Câu Na La và Quán bên sông.

Về thể loại nhạc trình diễn, xin nhạc sĩ cho biết trong số tác phẩm được công bố, NS ưng ý ca khúc nào nhất?

HV: Có thể tạm thống kê chưa đầy đủ là con số 300. Một con số chưa nhiều trong suốt một quãng đời hơn nửa thế kỷ sống và phụng sự chánh pháp. Nhưng có lẽ với tôi tất cả đều được rút từ tâm nguyện sâu thẳm của tâm hồn người con Phật dành cho văn hóa văn nghệ PG và GĐPTVN. Vì vậy tôi nghĩ con số ấy cũng là tiếng nói của một người nhạc sĩ PG chân chính, giúp tôi tự tin và sống “tri túc” trong niềm tin chánh pháp. Cuộc sống còn dài, sức lực sáng tác của tôi chưa dừng lại dù tuổi đời hay định luật vô thường có thể bất chợt, nhưng con số ấy nhất định sẽ còn tiếp tục ra đời trong sự đón nhận chân thành của mọi người như khi xưa đón nhận Ánh Đạo vàng của tôi.

Như đã nói, những tác phẩm của mình ra đời từ chính tâm nguyện chân thành dành cho Phật pháp, nên rất khó nói những tác phẩm nào ưng hay không ưng ý. Dù vậy, cũng xin tạm nêu ra đây 6 bài hát là dấu ấn cho hai giai đoạn trải dài hơn 50 năm qua, đó là Ánh Đạo vàng, Lửa Từ bi, Lời sám nguyện, Về thăm chùa Huế, Sáng tỏa hoa Đàm, và Lửa sáng niềm tin.

Trong suốt cuộc đời cống hiến cho văn nghệ Phật giáo, chắc hẳn NS gặp nhiều Tôn đức khích lệ tinh thần. Nhân vật nào để lại ấn tượng trong lòng NS nhất?

HV: Những vị mà tôi luôn cảm kính tri ân thì nhiều. Ấn tượng nhất vẫn là Hòa thượng (HT) Thích Thiện Hoa, HT.Thích Trí Thủ, HT.Thích Đức Thiệu, HT.Thích Thiện Siêu, HT.Thích Hải Ấn, HT.Thích Thông Bửu, Thượng tọa (TT) Thích Đồng Bổn, TT.Thích Chân Tính, Đại đức (ĐĐ)Thích Nhật Từ và ĐĐ.Thích Huyền Lan…

Là một NS chỉ chuyên sáng tác và phục vụ Phật Pháp, kể từ sau năm 1965 đến nay, đã có thêm giải thưởng hay vinh danh nào cho NS không?

HV: Tôi sống với mục đích cống hiến cho Phật đạo, dẫu có hay không những phần thưởng ấy thì tôi vẫn là Hằng Vang như thuở nào. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi được sự tin tưởng của chư tôn đức lãnh đạo PGVN. Được đồng bào Phật tử và nhất là có chư Long Thiên Hộ Pháp “chứng nhận” là tôi mãn nguyện lắm rồi. Sống-Cống hiến-Phục vụ là phương châm của tôi. Các thứ khác tôi không quan tâm lắm.

NS nghĩ gì khi giới văn nghệ sĩ PG đã gọi NS bằng danh hiệu “NHẠC SĨ 50 NĂM PHẬT GIÁO”?

HV: Đó thật sự là phần thưởng rất thú vị! Anh em văn nghệ sĩ nói đến danh hiệu ấy bằng tấm lòng của họ về những gì tôi đã sống và phục vụ. Tôi trân trọng danh hiệu quần chúng này. 

NS có dự tính gì cho riêng mình cũng như ước mơ một nền tảng văn nghệ PGVN mai sau không?

HV: Là một NS trường chay, tôi không có tham vọng xa xôi. Tôi ước mơ được sống khỏe, tiếp tục phục vụ văn nghệ PG đúng nghĩa. Tôi mong sao lãnh đạo GHPGVN, đặc biệt là Ban Văn hóa PG T.Ư và Ban Văn hóa PG các tỉnh thành quan tâm giá trị của văn nghệ PG, tạo môi trường thuận lợi cho văn nghệ PG được phát triển, nhờ đó, anh em văn nghệ sĩ PG có cơ hội sáng tác và phụng vụ GH và quần chúng.

Xin cảm ơn NS đã có buổi trò chuyện thú vị này.

Source: Dao Phat Ngay Nay

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4883)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7180)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4217)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4840)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5608)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6203)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3831)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5265)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5336)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12983)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567