Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diễn văn truy niệm và cầu siêu của Ban hướng dẫn Phật tử- Ôn cố tri tân

24/12/201003:47(Xem: 6684)
Diễn văn truy niệm và cầu siêu của Ban hướng dẫn Phật tử- Ôn cố tri tân

 HT_Khe_Chon_2
Diễn văn truy niệm và cầu siêu
của Ban hướng dẫn Phật tử- Ôn cố tri tân

 

 

Hôm nay trong khung cảnh trang nghiêm, trầm hương thanh tịnh, dưới mái tổ đình Từ Đàm lịch sử, thực hiện chương trình hoạt động của Ban Hướng Dẫn Phật Tử nhiệm kì 2007-2012 và trong tinh thần tri ân, báo ân, hướng đến chào mừng kỉ niệm 30 năm ngày thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam,

Được sự hoan hỷ chấp thuận của Ban Trị Sự  Phật Giáo Tỉnh, sự quan tâm giúp đỡ mọi mặt của quý cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền và mặt trận, Ban Hướng Dẫn Phật Tử Tỉnh Thừa Thiên Huế long trọng tổ chức Hội Thảo Hướng Dẫn Phật Tử và Đại Lễ Trai Đàn Truy Niệm Tiền Hậu Công Đức, Sáng Lập Hội Viên, Khuôn Trưởng, Trưởng Ban Hộ Tự, Hội Viên Thiện Nam Tín Nữ, Cư Sĩ Phật Tử, Gia Trưởng, Huynh Trưởng, Đoàn Sinh Gia Đình Phật tử trong tỉnh Thừa Thiên Huế và tưởng niệm Cầu Siêu quá cố Chư vị huynh trưởng nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập Gia Đình Phật Tử Việt Nam.

Trước hết, thay mặt Ban Hướng Dẫn Phật Tử tỉnh và Ban Tổ Chức Đại lễ chúng con thành kính đảnh lễ niệm ân Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Chứng Minh, Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni. Kính lời chào mừng nồng nhiệt đến chư vị quý khách lãnh đạo các cấp, quý vị nhân sĩ trí thức và toàn thể đồng bào Phật tử các giới. Cung chúc Chư Tôn Giáo Phẩm, Chư Tôn Đức Tăng Ni thế tuế thọ trường, trí huệ minh đăng, đạo lực hoằng thâm, thân tâm dõng mãnh. Kính chúc toàn thể quý liệt vị phước huệ trang nghiêm, thiện nguyện viên thành.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức
Kính thưa quý liệt vị


Trong suốt hành trình hơn 2000 năm tồn tại và phát triển trên đất nước Việt Nam thân yêu và nhập thân đồng hành cùng cộng đồng dân tộc, Đạo Phật đã trở thành một tôn giáo của dân tộc. Trong tâm hồn dân tộc Việt Nam thật đã sẵn có mầm mống tinh thần Phật Giáo. Đạo Phật với dân tộc bao giờ cũng theo nhau như bóng với hình trong cuộc sinh hoạt toàn dân.

Với tinh thần khế lý, khế cơ, và khế thời cho nên tai Huế vào năm 1932, cố Đại lão Hòa thượng Thích Giác Tiên khai sơn chùa Trúc Lâm – Huế  và Cư sĩ Tâm Min Lê Đình Thám hợp tác với Chư Tôn Đức trong Sơn Môn và các vị Cư Sĩ nhiệt thành vì chánh pháp đã thành lập Hội An Nam Phật Học. Trong tinh thần của Hội chủ trương, Đạo Phật là Đạo của muôn phương muôn thuở và của mọi người, mọi loài, cho nên Hội Phật Học đặc biệt chú trọng đến sự tổ chức các đơn vị của Hội là Khuôn Tịnh Độ ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê. Với nghị định số 15 chiếu theo biên bản của Hội nghị của Ban Trị Sự Tỉnh Hội Thừa Thiên Huế ngày 27 tháng 8 năm 1938 về việc tổ chức Khuôn Tịnh Độ để truyền bá Phật Pháp, nay là những ngôi Niệm Phật Đường, đơn vị cơ sở hạ tầng của Giáo Hội. Hội còn đặc biệt áp dụng tinh thần quảng đại của Đức Phật vào đàn thanh thiếu nhi. Cho nên các tổ chức Đồng Ấu Phật Tử, Thanh Niên Phật Học Đức Dục, Gia Đình Phật Hóa Phổ và đến tháng 4 năm 1951, theo quyết định của Tổng Hội Đồng - Hội Việt Nam Phật Học đại hội huynh trưởng Gia Đình Phật Hóa Phổ miền Trung và miền Bắc họp tại tổ đình Từ Đàm - Huế lấy danh xưng Gia Đình Phật Tử thay thế Gia Đình Phật Hóa Phổ và soạn nội quy trình.

Ra đời khi đất nước còn chìm đắm trong nô lệ, lớn lên trong lữa đạn chiến tranh, các Khuôn hội Niệm Phật Đường và Gia Đình Phật Tử chịu chung số phận đau thương cùng quê hương dân tộc.

Các Đạo hữu tiền bối hữu công, các vị Huynh trưởng cao niên đã dày công xây dựng các Khuôn Hội Niệm Phật Đường và tổ chức Gia Đình Phật Tử  bằng mồ hôi, nước mắt và cả sự sống của bản thân.

Chư tôn giáo phẩm lãnh đạo các cấp qua các thời kì và hiện tại Giáo Hội Phật Giáo Việt nam đã và đang hết lòng bao bọc, chở che, hướng dẫn cho các đạo hữu cư sĩ Phật tử thuộc các Niệm Phật Đường và Gia Đình Phật tử được tồn tại và phát triển đến hôm nay.

Trải qua biết bao giai đoạn thăng trầm của dân tộc và đạo pháp, các đạo hữu cư sĩ Phật tử và Gia Đình Phật Tử đã cùng với Giáo Hội gắn bó một lòng, vui buồn lẫn lộn, đoàn kết sắt son, biết đóng  góp cho quê hương bằng tình thương trí tuệ, bảo vệ đất nước bằng sự hi sinh dũng cảm vô úy của người Phật tử Việt Nam.

Đất xứ Huế chuẩn bị vào thu, tháng Bảy, mùa thu là mùa của tấm lòng, mùa của trùng trùng ân nghĩa và nhớ thương. Mỗi lần Thu đến dẫu ở phương trời nào lòng chúng ta cũng đậm một niềm kính thương, xao xuyến nhớ về những hình bóng đã vĩnh biệt ra đi.

Hôm nay, chúng ta vân tập về đây để cử hành Đại lễ cầu siêu chính thức truy niệm Chư Hương Linh. Đây là dịp để cho chúng ta thành kính tưởng niệm đến các bậc tiền bối hữu công của Giáo Hội, Chư vị sáng lập hội viên, Anh linh chư thánh tử đạo, các vị anh hùng liệt sĩ, các vị Khuôn trưởng, Trưởng Ban Hội tự, và toàn thể Đạo Hữu hội viên, Gia trưởng, Huynh trưởng, Đoàn sinh Gia Đình Phật Tử đã hi hiến cả cuộc đời cho dân tộc, cho đạo Pháp, cho lẽ sống nhiệm mầu của con người.

Tất cả những tình cảm tiếc thương chân thành mà chúng ta biểu hiện qua Đại lễ Cầu siêu tưởng niệm hôm nay, một mặt để báo ân về những hi sinh tận tụy của những người đi trước, để tìm lại dấu vết trên mọi nẻo đường của các vị đã đi qua; và mặt khác để tự nhắc nhở chúng ta biết tiếp nối một cách xứng đáng chí nguyện của những tấm lòng cao quý đã hiến tặng niềm bình an tâm linh cho con người giữa dòng đời tràn đầy đau khổ, để cho mỗi cõi lòng chúng ta biết nuôi dưỡng mãi ngọn lửa tin yêu, trách nhiệm, mong sao được thủy chung hơn với tâm nguyện sống và phải biết hy hiến cho đời cho đạo. Trong không khí trang nghiêm giao cảm này, kính xin quý vị cùng chúng tôi dành 1 phút lắng lòng để nhớ về những người đã vĩnh viễn giả từ nhưng còn để lại nhiều công đức và đạo tình sâu lắng. Tưởng nhớ đến quá cố chư hương linh để nhìn lại mình, để thắp sáng ước vọng cho chính mình, tiếp nối sự nghiệp hộ quốc an dân, phụng đạo giúp đời.

Kính thưa chư vị hương linh.

Chúng ta đang sống trong cuộc đời sắc không chuyển hóa, đã có sinh tất có diệt, đã có hội ngộ tất có biệt li. Đối diện với sinh diệt, thành hoại tụ tán ấy, tâm thức chúng tôi không làm sao tránh khỏi những cơn sóng cảm xúc, bùi ngùi, kính tiếc, xót xa.

Vẫn biết rằng: 

    Luật sanh tử sớm còn rồi tối mất.
    Lý vô thường trước có mà sau không.

Nhưng nghĩ đến những tháng năm nhân duyên đạo bạn sum vầy, đang cùng chúng tôi đi trên mảnh đất quê hương tràn đầy những hạt giống từ bi nhân ái, đang được tắm gội trong hào quang vi diệu của Đức Bổn Sư, đang cùng nhau tu học dưới mái nhà Phật Giáo Việt Nam.

Trải qua bao chặng đường phục vụ cho tổ quốc non sông, chư vị Hương Linh đã hi sinh cuộc đời mình cho Đạo Pháp, đã vong thân vì đại nghĩa, quyết phấn đấu cho công lí nhân sinh để bảo vệ nền tự do độc lập. Cũng có các vị đã quên mình vì tổ chức Giáo Hội trải mấy phen truyền bá chấn hưng, vì đàn hậu tấn phải dấn thân, có nhiều lúc lo chu toàn Phật sự mà xem nhẹ cá nhân, nguyện hết lòng hoằng dương Phật đạo, dù trăm cay ngàn đắng vẫn không từ. Hoặc là hàng Hội Viên Đạo Hữu, Gia Đình Phật Tử các cấp gần xa chí thành tin Phật, lập nguyện tu trì, tích cực tham gia Phật sự trong các cấp Giáo Hội ủy nhiệm phân công, góp tài, góp sức, góp trọn cả niềm tin để lo việc hưng long Tam Bảo, lợi lạc hữu tình.

Tinh thần ấy thiêng liêng bất diệt, quyển vàng giáo sử lưu danh.
Công đức kia bồi đắp về sau, đạo hạnh nêu gương chói lọi.

Đức Phật có dạy: “Học nhiều mến đạo chưa chắc gặp Đạo, vững chí giữ Đạo, Đạo lớn vô cùng.”

Giờ đây, núi Ngự Bình với rừng thông xanh biếc lộng gió ngàn phương, dòng Hương Giang thơ mộng nước chảy tháng ngày, tấm gương sáng soi dòng lịch sử vẫn còn đó, tịnh địa Từ Đàm thân thương kính quý vẫn còn vang vọng Kinh sáng Chuông chiều, văn phòng Giáo Hội đã khang trang rộng rãi với bao Phật sự đa đoan tiếp nối vẫn còn đây. Ngày nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị Sự tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế, Tăng Ni Phật tử tỉnh nhà đã và đang phát triển trang nghiêm trong lòng dân tộc, nhưng hình bóng thân thương của quý vị không còn nữa! Tuy thời gian có trôi qua, không gian có biến dịch nhưng công đức Phật sự của Chư Hương Linh vẫn còn sống mãi với thời gian vô cùng và không gian vô tận, vẫn còn hằng hữu quang minh trong lòng người con Phật xứ Huế và trang sử muôn màu của Phật Giáo Việt nam thời hiện đại.

Thành kính cầu nguyện Tam Bảo phóng quang tiếp độ Chư Hương Linh siêu sanh lạc quốc.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức
Kính thưa quý liệt vị

Chúng tôi tin tưởng rằng, trước sự chấn tích quang lâm chứng minh của Chư Tôn Giáo Phẩm, sự hiện diện của các cấp lãnh đạo và sự có mặt của quý liệt vị và toàn thể nam nữ Phật tử các giới trong Đại lễ cầu siêu chính thức nầy và trong cái vẫy tay từ giả cảnh trần cảnh hồng trần giả tạm của các vị Hương Linh cũng gợi được những tấm lòng thương Đạo mến Đời của Đạo Hữu Thiện Tín Cư Sĩ Phật Tử và Gia Đình Phật Tử ngồi lại bên nhau trong cùng một ngôi nhà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mà chung lo mối Đạo việc Đời ngày mai, bởi vì tất cả chúng ta đang có duyên lành tôn thờ một tôn giáo của ông bà cha mẹ, một tôn giáo của làng xóm, một tôn giáo của đất nước, của dân mình, nói tóm lại là một tôn giáo của dân tộc và tràn đầy dân tộc tính.

Mỗi người mỗi nước mỗi non
Bước vào cửa Phật là con một nhà
Cùng nhau thực hiện Lục Hòa   
Xiễn dương chánh Pháp, chan hòa niềm vui.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14540)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6726)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5384)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4877)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5278)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6102)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5943)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9342)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5005)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5309)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567