Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tựa

21/05/201312:28(Xem: 11489)
Tựa

TOÀN TẬP 
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI 

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000

--o0o--

TỰA

Thiền sư Minh Châu Hương Hải là một tác gia lớn không những của văn học và triết học Phật giáo Việt Nam, mà còn của văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. Từ nửa cuối thế kỷ 18, cuộc đời và tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đã lôi cuốn sự chú ý của những người trí thức đương thời, trong đó nổi bật nhất là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784). Chính trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn lần đầu tiên đã có những ghi chép tương đối đầy đủ về thân thế và thơ văn của Minh Châu Hương Hải, từ đó, trở thành nguồn tư liệu cho những người nghiên cứu tiếp sau. Điều đáng tiếc là những ghi chép vừa nêu đã chứa đựng một số lẫn lộn, đặc biệt là việc lẫn lộn các bài thơ của những Thiền sư Trung quốc với chính những tác phẩm của Minh Châu Hương Hải. Sự kiện này gây ra không ít khó khăn cho những ai muốn nghiên cứu nghiêm túc về lịch sử văn học và tư tưởng Việt Nam cũng như Phật giáo Việt nam thế kỷ thứ 17 .

Chúng tôi do thế đề nghị tập hợp lại đây toàn bộ các tác phẩm hiện biết dưới tên Minh Châu Hương Hải và cho nghiên cứu tất cả chúng, nhằm giúp những ai quan tâm đến lịch sử văn học và tư tưởng dân tộc cùng Phật giáo những nguồn tư liệu đáng tin cậy. Minh Châu Hương Hải toàn tập ra đời là một thể hiện của nỗ lực ấy. Chúng tôi biết rằng lúc sinh thời, Minh Châu Hương Hải đã để lại cho chúng ta rất nhiều tác phẩm, mà cứ theo Hương Hải Thiền sư ngữ lục thì lên tới 30 quyển. Nhưng ngày nay chúng tôi mới phát hiện được 2 quyển Giải Kim cương kinh lý nghĩa, một quyển Giải Di Đà kinh, một quyển Giải Tâm kinh ngũ chỉ, một quyển Sự lý dung thông, tất cả tổng cộng là 5 quyển. Còn 25 quyển kia thất lạc chưa tìm thấy cho đến lúc này. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mạnh dạn gọi đây là toàn tập của Minh Châu Hương Hải, bởi vì 5 quyển này là tất cả những gì mà chúng tôi đã trải 25 năm sưu tầm. Nói khác đi, chúng tôi không còn hy vọng tìm thêm một tác phẩm nào khác nữa của Minh Châu Hương Hải ngoài 5 quyển vừa nêu trên. Vì vậy, chúng tôi coi chúng đại diện cho toàn bộ của tác phẩm của Minh Châu Hương Hải. Nêú trong tương lai có phát hiện gì mới, chúng tôi sẽ bổ sung. Tất nhiên, đây cũng có thể gọi là một di tập của ông .

Ngoài 5 tác phẩm ấy, chúng tôi sẽ cho dịch kàm theo trong Toàn tập này bản Hương Hải thiền sư ngữ lục in vào năm Cảnh Hưng thứ 8, Đinh Mão 1747. Đây là tài liệu cơ bản mà Lê Quý Đôn đã sử dụng để có những ghi chú của ông trong Kiến văn tiểu lục. Qua nghiên cứu bản ngữ lục này, chúng tôi thâý có chép 59 bài thơ và 14 đoạn văn của Minh Châu Hương Hải. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, 47 bài thơ và 5 đoạn văn đều chứng tỏ là của những tác giả Trung quốc, chứ không phải của vị thiền sư của chúng ta. Lê Quý Đôn đã nhầm lẫn điều này nên lựa ra 42 bài thơ và 12 đoạn văn vừa nêu để gán cho Minh Châu Hương Hải. Đây mới là một kết quả sơ bộ bởi vì những bài thơ và đoạn văn khác cũng có khả năng của các tác giả Trung quốc, nhưng do cho đến nay vẫn chưa tra cứu được trong các tác phẩm Trung quốc hiện còn, nên chưa có thể bàn luận gì về chúng. Chỉ có sự kiện là trong số 12 bài thơ còn lại thì có khả năng chắc chắn 5 bài là của Minh Châu Hương Hải .

Để tiện cho việc theo dõi của người đọc, trong bản dịch Hương Hải thiền sư ngũ lục, chúng tôi cho đánh số liên tục các bài thơ từ 1 đến 59, trừ một bài thơ quốc âm của Trịnh Cương và 2 bài thơ chữ Hán của Đặng Đình Tướng không được đánh số. Các đoạn trích văn cũng được đánh số như thế từ 1 đến 14, nhưng có thêm chữ (V) ở trước các số để phân biệt. Trong phần nghiên cứu, chúng tôi sử dụng lối đánh số này để gọi tên các bài thơ có trong Hương Hải thiền sư ngũ lục và chỉ ra nó thuộc tác giả và tác phẩm nào của Trung quốc, các đoạn văn xuôi cũng vậy .

Cũng nhờ bản Hương Hải thiền sư ngũ lục này, chúng ta sẽ có dịp nghiên cứu tình trạng "tam sao thất bổn" mà các bản chép tay thường gặp phải, cụ thể là chép về thơ văn của Minh Châu Hương Hải trong Kiến văn tiểu lục 9 của Lê Quý Đôn. Chúng tôi nghĩ Lê Quý Đôn không bao giờ chép sai khi chép lại cái gọi là thơ văn của Minh Châu Hương Hải từ Hương Hải thiền sư ngũ lục, mà chắc chắn ông đã sử dụng. Tuy nhiên, bản vi phim mà chúng tôi có hiện nay do trường Viễn đông bác cổ Pháp chụp vào ngày 29 tháng 11 năm 1954 mang ký hiệu số A.32, No.312, đã cho thấy qua những lần sao chép có những sai chạy so với bản in Hương Hải thiền sư ngũ lục, khi chép lại các bài thơ của Minh Châu Hương Hải .

Các tác phẩm Trung quốc mà chúng tôi sử dụng để truy tìm các bài thơ Hán chép lẫn trong Hương Hải thiền sư ngũ lục là Cảnh Đức truyền đăng lục và Tục truyền đăng lục của bản in Đại Chính tân tu Đại tạng kinh (viết tắt ĐTK) mang số 2076 và 2077 và Ngũ đăng hội nguyên, Thiền tông tụ cổ liên châu thông tập và Thiền tông chính mạch của bản in Tục tạng kinh. Tất cả các quyển số và tờ trang được dẫn trong bản Toàn tập này được lấy từ các bản in ấy. Riêng khi trích dẫn Tục tạng, chúng tôi ghi 2 loại số tờ, 1 ghi bình thường và 1 để trong ngoặc. Điều này có nghĩa số thường là số trang đánh liên tục của Tục tạng kinh hội biên ấn từ đầu sách cho đến cuối sách, còn số trong ngoặc là số tờ của từng tác phẩm mà Tục tạng kinh hội đã dùng để in lại trong Tục tạng kinh của hội. Thí dụ, Thiền tông chính mạch 9 tờ 308a12-13 (154c12-13), thì số 308 là chỉ tờ do Tục tạng kinh hội đánh , còn số 154 trong ngoặc là số tờ của bản in gỗ mà Tục tạng kinh hội dùng để in. Chúng tôi ghi cả 2 số, nhằm giúp cho những người có bản in Thiền tông chính mạch lưu hành bên ngoài Tục tạng kinh dễ theo dõi .

Bộ Toàn tập này được chia làm hai phần. Phần Một gồm nghiên cứu, giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp Minh Châu Hương Hải, trong đó chúng tôi chỉ ra các bài thơ và đoạn văn nào là của các tác giả Trung quốc hiện đã tìm thấy. Phần hai gồm tác phẩm đầu tiên của Minh Châu Hương Hải là Giải Kim Cương kinh lý nghĩa và 3 tác phẩm còn lại của ông là Giải Di Đà kinh sớ sao, Giải Tâm kinh ngũ chỉ và Sự lý dung thông cùng với những phân tích, giới thiệu từng tác phẩm một của chúng tôi. Chúng tôi cũng in kèm Hương Hải thiền sư ngũ lục cùng với phần phân tích, giới thiệu và bản dịch chữ Việt ở đầu phần hai nhằm cung cấp tư liệu nghiên cứu đầu tay cho những ai quan tâm đến tác gia lớn này .

Để bảo lưu các bản in cũ và cũng để cung cấp tư liệu nghiên cứu và kiểm soát, chúng tôi cho in lại toàn bộ các văn bản chữ Hán và quốc âm của các tác phẩm vừa nêu. Trong trường hợp một tác phẩm có một hay nhiêù bản in hay bản chép tay thì chúng tôi chọn lấy bản tốt nhất .

Vạn Hạnh 
Mùa Vu Lan 1998

Lê Mạnh Thát


---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6622)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi.
09/04/2013(Xem: 7411)
Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
09/04/2013(Xem: 19582)
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM : Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng kinh học luật là điều chính yếu của người xuất gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe quí Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu tra luận nghĩa, mà quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy được trí tánh thông minh của Thầy......
09/04/2013(Xem: 6896)
Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này.
09/04/2013(Xem: 6235)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận-Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðét miền Nam nước Việt, sinh Năm Ất Hợi (1935). Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu.
09/04/2013(Xem: 6970)
Hòa thượng họ Võ, húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tư Tri Đức, hiệu Thiện Siêu, Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong môt gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Thân Phụ là C ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết. Hòa thượng là con trưởng trong một gia đình có 6 anh em: 3 trai, 3 gái. Người em kế cũng xuất gia, đó là cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Lâm Đồng; Trú trì chùa Phước Huệ - Bảo Lộc.
09/04/2013(Xem: 8489)
Thầy xuất thân trong một gia đình kính tín Tam bảo. Thầy là con út trong gia đình gồm 6 anh chị em. Cha là cụ Ông Lâm Sanh Thảo, một nhà trí thức yêu nước; Mẹ là cụ Bà Trần Thị Năm, một phật tử thuần túy và cũng là một người Mẹ mẫu mực đảm đang.
09/04/2013(Xem: 11454)
Thượng tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Mến. Thượng tọa có 06 anh em, 2 trai 4 gái, Ngài là anh cả trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 23075)
Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Ðức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
09/04/2013(Xem: 11910)
Thuở nhỏ lòng ưa cửa Ðạo, mến chuộng nếp áo phước điền, ngưỡng trông tịnh xá Kỳ Viên, tha thiết lòng cầu xuất tục. 16 tuổi, xuất gia học đạo chùa Tây An, Châu Ðốc trước tiên, gần quý Thầy hiền, trau dồi Phật tuệ, bang sài vận thủy, tu sửa đạo tràng; 27 tuổi, cầu thọ tam đàn. Kể từ đó tinh chuyên tu niệm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]