Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết IV

02/05/201317:25(Xem: 5870)
Tiết IV


TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
HT. Thích Thiền Tâm
Soạn thuật
---o0o---

CHƯƠNG III

TIẾT IV

GIẢI-THÍCH

BÀI NGUYỆN-HƯƠNG

A. Nguyện mây-hương mầu nầy, Hiện khắp mười phương cõi.

Hai câu kệ nầy ý dạy như sau:

1. Nghĩa thường (thông-nghĩa):

Là nói: - Con nguyện cho khói nhang mà con đốt để cúng-dường PHẬT ngày hôm nay, tại nơi đạo-tràng nầy - sẽ kết thành những đám mây hương rộng lớn bay khắp 10 phương, đến khắp các Phật độ, thay-thế con mà cúng-dường lên tất-cả chư PHẬT.

2. Nghĩa đạo (pháp nghĩa):

- Hương: Tức là mùi thơm của (người)đạo-đức, trong kinh gọi là "mùi hương phạm-hạnh".

Có tất-cả 5 loại "Hương phạm-hạnh" - Tức là "Ngũ phần danh hương" hay là "Ngũ phần pháp-thân hương" sau đây:

a. Giới hương:

Tức là hương thơm của người giữ tròn được các giới-hạnh của mình đã thọ. Kẻ đó ba nghiệp thân, khẩu, ý thảy đều trong sạch, không có lỗi lầm.

b. Ðịnh-hương:

Tức là mùi hương của các bậc giữ tâm được thanh-tịnh, không còn bị lâm vào các hoàn cảnh mừng, giận, thương, ghét, âu-lo ... của thường tình nhơn thế.

Tâm của quý ngài đã được ÐỊNH lại rồi, chớ không còn chạy theo trần-dục nữa.

c. Huệ-hương:

Tức là hương thơm trí-huệ.

Ðây là các bậc đã được cái TRÍ-HUỆ chơn thật (Trí-huệ Bát-nhã)và nhờ như vậy mà quý ngài nhìn thấu rõ cảnh đời là vô-thường, vinh-hoa là giả-tạm, thân-tâm đều hư-huyễn, biết rõ các lẽ thiện, ác và nhơn-quả, luân-hồi ...

Tức là hương thơm của các bậc đã được giải-thoát khỏi ba cõi, sáu đường ... Tâm ý của quý ngài không còn chấp trước vào trong tất-cả các pháp, tự-tại, vô-ngại như hư không.

e. Giải-thoát tri-kiến hương:

(Tri-kiến là thấy biết)

Ðây là mùi hương thánh-thiện của các bậc đã đạt được trí-huệ bát-nhã và giải-thoát ra khỏi sanh-tử, luân-hồi.

Với trí-huệ ấy, quý Ngài đều thấy biết tất-cả các pháp, thâm-nhập vào trong cảnh-giới của PHẬT, chứng được VÔ-SANH PHÁP-NHẪN.

Ðây là 5 loại hương thơm lành của các bậc thánh-giả. 5 loại hương nầy hiệp lại thì kết thành ra cái "PHÁP THÂN" giải-thoát - Vì thế nên gọi là:

"NGŨ PHẦN PHÁP-THÂN HƯƠNG"

Trong những bài nguyện-hương nơi các chốn thiền-môn có một bài nguyện về "ngũ phần pháp-thân hương" như sau:

Giới-hương, định-hương, huệ-hương,

Giải-thoát, giải-thoát tri-kiến hương.

Năm thứ hương nầy xông pháp-giới,

Cúng-dường Tam-bảo khắp mười phương.

Nam-mô

HƯƠNG-VÂN CÁI BỒ-TÁT (3 lần)

Hoặc là:

Lư-hương xạ-nhiệt,

Pháp-giới mông-huân.

Chư Phật hải-hội tất diêu-văn.

Tùy xứ kiết-tường vân,

Thành-ý phương ân.

Chư PHẬT hiện toàn thân.

Nam-mô

HƯƠNG VÂN CÁI BỒ-TÁT. (3 lần)

Trong văn-học (Quan Âm Thị-kính)có hai câu thơ sau đây:

...Hương xông, pháp giới ngùi-ngùi,

Thông reo tiếng kệ, trúc hồi mỏ kinh. (1)

... Có một dạo, ngài ANAN hỏi PHẬT rằng:

- Bạch đức THẾ-TÔN, trong tất-cả các mùi hương trên thế-gian nầy, có mùi hương nào bay ngược được chiều gió hay không ?

PHẬT đáp:

- Nầy A NAN, không một mùi hương nào mà có thể bay ngược chiều gió được cả. Ngoại trừ có một mùi hương, chẳng những bay ngược được chiều gió mà còn tỏa rộng khắp đến muôn phương.

A NAN thưa:

- Bạch THẾ-TÔN chẳng hay đó là loại hương gì ?

PHẬT đáp:

- Ðó là mùi hương của người tu PHẠM-HẠNH(tức là đạo-đức trong sạch).

Mùi hương mà Phật vừa nói đó chính là "Ngũ phần pháp-thân hương" vừa giải-thích ở trên đây vậy.

Tóm ý hai câu kệ nầy dạy như sau:

- Trong cuộc đời tu-hành của con, nếu như có được bao nhiêu công-đức, pháp lành chi, con nguyện xin dưng cúng-dường lên chư PHẬT khắp cả 10 phương pháp-giới.

B. Tất-cả các PHẬT độ, Vô-lượng hương trang-nghiêm.

Là ý nói:

- Trong tất-cả các PHẬT độ khắp 10 phương, có bao nhiêu các loại chúng-sanh, có bao nhiêu Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát ... con đều nguyện cho họ được trang-nghiêm pháp thân (của họ)bằng mùi hương vô-lượng công-đức "Ngũ phần pháp-thân" ấy, mãi-mãi cùng tận kiếp vị-lai, cho đến khi nào họ chứng-đắc được quả-vị VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ (thì lời nguyện của con mới mãn).

C. Ðầy-đủ Bồ-tát đạo, Thành-tựu NHƯ-LAI hương.

Là ý nói:

- Con nguyện cho khắp tất-cả chúng-sanh trong khắp tất-cả các PHẬT độ ở 10 phương, đều phát-tâm tu hành theo lời Phật dạy, mãi-mãi tinh-tấn không thối-chuyển, dần-dần đầy-đủ hết các đạo-hạnh của Bồ-tát và chứng được quả-vị VÔ-THƯỢNG BỒ-ÐỀ của Phật, thành-tựu được mùi hương Phạm-hạnh vi-diệu, tối-thượng của Như-lai.

D. Nam-mô HƯƠNG-VÂN CÁI bồ-tát:

Ðây là một vị đại Bồ-tát, tên của NGÀI là HƯƠNG-VÂN CÁI.

Ngài có lập ra một lời thệ-nguyện như sau:

- "Trong 10 phương quốc-độ, nếu có các chúng-sanh nào muốn dùng mùi hương dâng lên cúng-dường chư Phật, Như họ không được đầy-đủ phương-tiện, thì tôi sẽ thay-thế họ, biến những khói hương đó thành ra những đám mây-hương bay đến khắp tất-cả quốc-độ, thay-thế họ để cúng-dường khắp tất-cả chư PHẬT... Tôi cũng sẽ dùng sức thần-thông cùng bản-nguyện của tôi, ngầm gia-hộ cho các người thiện nam, thiện nữ đó sớm được thành-tựu căn lành, chứng hương-vị bồ-đề vô-thượng"....

Vì thế cho nên, trong các chốn thiền-môn và mọi khóa-lễ ... sau khi đọc xong lời nguyện-hương rồi, Phật-tử đều đồng xưng-niệm danh-hiệu của ngài là:

"Nam-mô HƯƠNG-VÂN CÁI BỒ-TÁT".

Ðể kết bài nguyện-hương, là có mật-ý muốn nương nơi nguyện-lực của NGÀI để cho khói hương ấy được biến-mãn khắp 10 phương, cúng-dường lên tất-cả chư PHẬT.

Ðức A-DI-ÐÀ Như-lai, khi còn làm PHÁP-TẠNG Bồ-tát, ngài có phát ra lời đại-nguyện như sau:

Nguyện thứ 32:

- "Giả-sử khi tôi thành PHẬT, thì từ dưới mặt đất trở lên cho đến hư-không, các cung-điện, lầu-các, ao, hồ, cây hoa, hết thảy muôn vật ở trong cõi nước, đều dùng bằng vô-lượng thứ trân-bảo và trăm ngàn các thứ hương hiệp lại mà thành, xinh-đẹp, kỳ-lạ hơn của các hàng thiên, nhơn.

Hương thơm ấy xông khắp vô-lượng thế-giới ở 10 phương. Các Bồ-tát nghe, ngửi được mùi hương ấy rồi, thảy đều tu theo PHẬT hạnh. Nếu không được như thế thì tôi thề chẳng lấy ngôi chánh-giác".

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8082)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4840)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37194)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6140)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6106)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5742)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5643)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5921)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5455)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8764)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]