Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương II

02/05/201317:20(Xem: 8549)
Chương II

TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
HT. Thích Thiền Tâm
Soạn thuật
---o0o---

PHẦN II

NGHI-THỨC HÀNH-TRÌ

(SỰ HÀNH-TRÌ)

TÂY-PHƯƠNG NHẬT KHÓA

MẬT-TỊNH PHÁP-NGHI.

ÐÀN PHÁP

ÐÔI LỜI căn-dặn ........

Bắt đầu từ đây trở về sau là phần nghi-thức hành-trì (SỰ hành-trì) của pháp-môn MẬT-TỊNH SONG-TU trong quyển Tây-phương Nhật-khóa nầy.

Các liên-hữu hãy cố-gắng để-tâm và lưu-ý đến những lời chỉ-dẫn của soạn-giả để hành-trì cho đúng theo pháp-thức, hầu dễ-dàng phát-sanh ra hiệu-nghiệm hơn ........

Nguyên-bản của Vô-Nhất Ðại-Sư THÍCH THIỀN-TÂM Hòa-Thượng soạn ra – Vì để gây nên sự dễ-hiểu cho các Phật-tử trẻ tuổi hấp-thụ theo nền tân-học Tây-phương thời nay vốn không hiểu nhiều về chữ Hán (âm Hán-văn) – nên trong pháp nghi soạn ra ngài chỉ dùng toàn văn Nghĩa (Việt-nghĩa) để cho mọi người khi xem đến, khi hành-trì đến ... đều có thể hiểu rõ lời kinh và pháp-ý mà phát-tâm phấn-khởi tu tập thêm hơn.

Tuy-nhiên ........

Thể theo lời yêu cầu của một số Phật-tử lớn tuổi theo trường-phái xưa, hiểu-biết Hán-văn và ưa-thích cách đọc-tụng theo âm-Hán-Việt, nên tôi cho ghi thêm vào đây một vaøi phần âm Hán-Việt (kế bên) hầu được tiện-dụng hơn.

Vậy nên:

- Các liên-hữu có thể đọc-tụng và hành-trì “Tây-phương nhật-khóa, Mật-Tịnh pháp-nghi” nầy hoặc là theo Việt-Nghĩa, hoặc là theo cách ÂM, NGHĨA phối-hợp (như trong nghi-thức), tuỳ theo sở-thích của riêng mình, miễn sao cho được thích-hợp là tốt nhất.

Ðiều cần-thiết là phải nên chí-thành, trân-trọng trong lúc hành-trì.

Có như vậy mới thu-hoạch được nhiều lợi-lạc trên bước đường tu.

Bái-bạch. –

PHÁP-HOA Tự Tucson, Arizona.

Niệm Phật Tăng

Sa-môn THÍCH HẢI-QUANG.

(Cẩn-bút)

CHƯƠNG II

MẬT-TỊNH NGHI-THỨC

(HÀNH-TRÌ)

TIẾT I. LỜI DẶN CỦA SOẠN-GIẢ

Từ đây trở về sau........

Những đoạn nào có kép vòng đơn, là các lời căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nhỏ. Chữ lớn là phần daønh để xướng-tụng và hành-trì.

Trải qua nhiều năm kinh-nghiệm, tệ-nhơn xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm(1) ma-chướng ngoại-cảnh(2) và ma-chướng thuộc giới vô-hình(3).

Vì thế........

Sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng (kinh), tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả (4) khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo(5) cùng Hiển-giáo(6) soạn ra nghi-thức nầy.

Trong đây tệ-nhơn chỉ chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời văn tuy gọn mà ý-tứ đầy-đủ. Pháp-nghi nầy được chia ra làm ba phần:

a. Lễ-bái, sám-hối.

b. Trì-chú niệm Phật.

c. Phát-nguyện, hồi-hướng.

Xin lưu-ý:

- Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu hướng về chơn-cảnh(7), còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp cùng cao, công-đức ít hay nhiều v.v... còn tùy theo nơi tâm chí-thành và sứ trì-niệm của các hành-giả.)

Trân-trọng. –

TIẾT II: PHẦN LỄ-BÁI VÀ SÁM-HỐI

(Dặn:

- Trước tiên rửa sạch tay, mặt.

- Lễ phục nghiêm-chỉnh(8).

- Khi đến nơi đạo-tràng, nơi lễ tụng ... thì:

a. Hành-giả tay trái dùng ấn “Kiết-tường” (xem đồ-hình, ấn-quyết và chú-giải) vẽ chữ RẢM

ram

sắc trắng vào trong lòng bàn tay mặt 3 lần. Kế đến tay mặt cũng kết ấn “Kiết-tường” vẽ vào lòng bàn tay trái y như vậy.

(Ý-nghĩa của việc làm nầy như sau:

- Bởi vì tay ta thường dơ-bẩn nên phải dùng chữ RẢM màu trắng để rửa cho sạch trước khi bắt ấn, trì chú – Chữ RẢM là tiếng Phạn hàm-ẩn ý-nghĩa cuûa sự thanh-tịnh, còn màu trắng là tượng-trưng cho sự trong sạch).

b. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui lại, chắp tay đứng (hoặc quỳ) trước bàn Phật, đọc bài kệ tán sau đây:

batan

-Ấn-quyết:(Cách bắt ấn)

- Ngón tay cái nắm co đầu ngón vô-danh (áp-út).

- Ba ngón còn lại: trỏ, giữa và út duỗi thẳng ra là thành ấn.

Ấn nầy còn được gọi bằng một tên phổ-thông nữa là: Quan-Âm ấn.

KỆ TÁN PHẬT:

(Bài kệ khen-ngợi Phật).

(Hành-giả phải chí-thành cung-kính, hoặc đứng, hoặc quỳ. Chấp tay đọc bài kệ sau đây):

(VIỆT-NGHĨA):

Sắc thân PHẬT mầu đẹp,

Trong đời không ai bằng.

Khó sánh-ví, nghĩ bàn,

Nên nay con đảnh-lễ. (1 lạy)

Sắc thân PHẬT vô-tận,

Trí-huệ cũng như thế.

Tất-cả pháp thường-trú, (9)

Nên nay con quy-y. (1 lạy)

Bi, trí, nguyện-lực lớn,

Ðộ khắp cả hàm-linh. (10)

Khiến bỏ thân nhiệt-não,

Sanh về cõi thanh-lương. (1 lạy)

Nay con tịnh ba nghiệp, (11)

Quy-y và lễ tán.

Nguyện cùng các hữu-tình, (12)

Ðồng sanh về Cực-lạc. (1 lạy)

(Hành giả cũng có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích).

(Sau đây là phần Âm Hán-Việt. Hành-giả chỉ cần đọc, tụng một trong hai phần –Hoặc Âm hoặc nghĩa mà thôi)

Như-lai diệu sắc thân,

Thế-gian vô dử-đẳng.

Vô-tỉ, bất tư-nghì,

Ngã kim quy-mạng lễ. (1 lễ)

Như-lai sắc vô-tận,

Trí-huệ diệc phục-nhiên.

Nhất-thiết pháp thường-trú,

Thị cố ngã quy-y. (1 lễ)

Ðại-trí, đại-nguyện lực,

Phổ-độ ư quần-sinh.

Linh-xả nhiệt-não thân,

Sanh bỉ thanh-lương quốc. (1 lạy)

Ngã kim tịnh tam-nghiệp,

Quy-y cập lễ tán.

Nguyện cộng chúng hữu-tình,

Ðồng sanh An-dưỡng quốc. (1 lạy)

PHỔ-LỄ CHƠN-NGÔN:

AUM ! VÀJRA MÙD. (7 lần)

(Um, va ji ra, mật)

(DẶN:

- Trong khi tụng chú nầy, hành-giả dùng tay kết ấn “KIM-CANG HIỆP-CHƯỞNG” để ngay trên đỉnh-đầu (xoáy-tóc).

Theo Mật-giáo (mật-tông), hành-giả nên nhắm mắt lại, để tâm yên-lặng, thanh-tịnh – Xong quán-tưởng thân mình hiện ra khắp pháp-hội ở mươøi phương, lễ kính chư PHẬT.

Xong rồi thì xả ấn ra (ngay trên đảnh đầu)

Sau đây là ẤN-QUYẾT:

(cách bắt ấn)

- Hai tay chắp lại,

- Hữu áp tả,

(Tức là các ngón tay mặt đè lên các ngón tay trái)

- 10 ngón tay để so-le nhau,

- Cả 10 ngón tay đều Ngoại xoa(đưa ra bên ngoài)

(Xem đồ hình ấn dưới đây)

phole

(Kế tiếp hành-giả đứng ngay-ngắn trước bàn Phật – Nghiêm-chỉnh, chắp tay, mắt chăm nhìn vào tượng PHẬT – Ðọc phần đảnh-lễ như sau)

(VIỆT-NGHĨA)

1. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ,

THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT,

Trăm ngàn ức hóa-thân,

Khắp pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lạy).

2. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ,

A-DI-ÐÀ Như-Lai,

Pháp-thân mầu thanh-tịnh,

Khắp pháp-giới chư Phật.

(Chuông – 1 lạy).

3. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Thật-báo trang-nghiêm độ,

A-DI-ÐÀ Như-Lai,

Thân tướng hải vi-trần,

Khắp pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lạy).

4. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Phương-tiện Thánh cư độ,

A-Di-ÐÀ Như-lai

Thân trang-nghiêm giải-thoát,

Khắp pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lạy).

5. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc Phương Tây,

A-DI-ÐÀ Như-Lai,

Thân căn-giới đại-thừa,

Khắp pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lạy).

6. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc Phương Tây,

A-DI-ÐÀ Như-Lai,

Thân hóa đến mười phương,

Khắp pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lạy).

7. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương Tây,

Giáo, hạnh, lý ba kinh,

Y, chánh đều tuyên-dương,

Khắp pháp-giới tôn PHÁP.

(Chuông – 1 lạy).

8. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương Tây,

QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát,

Thân tử-kim muôn-ức,

Khắp pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lạy).

9. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương TÂy,

ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát,

Thân, trí sáng vô-biên,

Khắp pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lạy).

10. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương-Tây,

VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát,

Thân thị-hiện Trí-mầu,

Khắp pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lạy).

11. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương Tây,

PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát,

Thân hạnh, nguyện sát-trần,

Khắp pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lạy).

12. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Cõi Cực-Lạc phương Tây,

Thanh-Tịnh Ðại-hải chúng,

Thân phước-trí trang-nghiêm,

Khắp pháp-giới thánh-chúng.

(Chuông – 1 lạy).

(Sau đây cũng là phần đảnh-lễ trên, được diễn theo ÂM Hán-Việt – Hành-giả chỉ cần đọc một trong hai phần nầy hoặc ÂM hoặc NGHĨA mà thôi).

(HÁN-VIỆT)

1. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Hoằng-dương môn TỊNH-ÐỘ,

THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT,

Thiên, bá, ức hóa thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

2. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Thường-tịch quang Tịnh-Ðộ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Thanh-tịnh diệu pháp-thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

3. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Thật-báo trang-nghiêm độ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Vi-trần tướng hải thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

4. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Phương-tiện Thánh cư-độ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Giải-thoát tướng nghiêm thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

5. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Ðại-thừa căn-giới thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

6. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Thập-phương hóa vãng-thân,

Biến pháp-giới chư PHẬT.

(Chuông – 1 lễ).

7. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI,

Giáo, Hạnh, LÝ, tam kinh,

Cực y, chánh tuyên-dương,

Biến pháp-giới tôn PHÁP..

(Chuông – 1 lễ).

8. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

QUÁN THẾ-ÂM Bồ-tát,

Vạn ức tử kim thân,

Biến pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lễ).

9. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

ÐẠI THẾ-CHÍ Bồ-tát,

Vô-biên quang-xí thân,

Biến pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lễ).

10. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

VĂN-THÙ Ðại Bồ-tát,

Trí-mầu thị-hiện thân,

Biến pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lễ).

11. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

PHỔ-HIỀN Ðại Bồ-tát,

Hạnh-nguyện sát-trần thân,

Biến pháp-giới Bồ-tát.

(Chuông – 1 lễ).

12. NHỨT-TÂM ÐẢNH-LỄ:

Tây-phương An-lạc độ,

Thanh-Tịnh đại-hải chúng, ��

Phước, Trí nhị nghiêm thân,

Biến pháp-giới thánh-chúng.

(Chuông – 1 lễ).

(Dặn:

- Kế tiếp (Sau phần hoàn-tất 12 lễ nầy xong, hành-giả quỳ xuống trước bàn Phật, chắp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối sau đây):

Quy-mạng mười phương PHẬT,

Tôn PHÁP, hiền-thánh TĂNG,

Tam-thánh cõi Cực-Lạc,

Xin thương-xót chứng-minh,

Vô-thỉ kiếp đến nay,

Con mê lạc luân-hồi.

Do bởi tham, sân, si,

Từ nơi thân, khẩu, ý.

Tạo tứ-trọng, ngũ-nghịch,

Thập ác, vô-biên tội.

Nay đem tâm chí-thành,

Tỏ bày cầu sám-hối.

Nguyện nhớ sức gia-trì,

Thân-tâm đều thanh tịnh.

Xin phát đại Bồ-đề,

Ðộ mình, người giải-thoát.

(Chuông – 1 lạy).

Ðệ-tử (đọc pháp-danh lên) Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo.

(Chuông – lạy 3 lạy)

--------------------------------------------------------

(1)- Ma-chướng:Những gì gây trở-ngại cho việc phát-triển căn lành của mình thì đều gọi là ma. (như buồn ngủ làm cho tu không được thì gọi là ma buồn ngủ ... ma làm biếng, ma sân-hận, ma si-mê, vv...)

(2)- Ma-chướng ngoại-cảnh: Tức là ma bên ngoài, có hình-tướng có danh-sắc. Ðây là các sắc (tướng)ma. Trong ngủ-ấm ma thì nó đứng đầu (SẮC). Loại ma nầy có vô-lượng tướng-dạng.

(3)- Ma-chướng thuộc giới vô-hình:là các loại ma không có hình-tướng vật chất. Như là hồn-linh, ma quỷ. Ở đây soạn-giả muốn nói đến các loài thiên ma tức là Ma-vương và các thuộc-hạ ở cung trời Tha-Hóa tưï-tại.

Ngoài ra còn thêm 10 loại ma khác như sau:

- Ngủ-ấm ma (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức).

- Phiền-não ma (Tham, sân, si).

- Nghiệp ma (các ác-nghiệp quá khứ hoặc hiện taïi).

- Tâm ma (Cống cao, ngả-mạn - Thất mạn).

- Tử ma (Ma chết, tử thần).

- Thiên ma(Ma-vương ở cõi trời thứ 6 là Tha-Hóa tự-tại).

- Thiện-căn ma: ỷ mình có đủ phước-đức, căn lành sanh ra kiêu ngạo, không chịu tu hành, gần thiện tri-thức.

- Tam-muội ma:ỷ mình đắc được một vài thiền-định, rồi mê đắm chấp và trụ vào trong đó, không chịu phát-tâm Bồ-đề vô-thượng tinh-tấn thêm nữa (Loại ma nầy bao gồm các hàng Thiên-tiên, ngoại đạo và các bậc Tiểu-thừa thánh quả).

- Thiện tri-thức ma:là người hiểu biết điều đạo-lý, kinh-điển mà ích-kỷ, cứ bo-bo giữ cho mình chớ không đem ra dạy-dỗ cho người, sợ người ta biết như mình rồi không còn kính-trọng, cúng-dường cho mình nữa. Vô-tình đi vào trong ma đạo.

- Bồ-đề pháp tri ma:Trong pháp Phật tuy khởi lòng tin, có trí-huệ nhưng tâm còn chấp trước các pháp, nên bị che lấp chánh-trí, không chịu cầu thành được quả-vị Phật (Ðây là chỉ cho các vị thánh-nhơn ở hai thừa Thănh-Văn, Duyên-Giác).

(4)- Hành-giả:Người hành-trì, tu-tập (chẳng-hạn như mình vậy).

(5)- Mật-Giáo:Tức là MẬT-TÔNG. Ðây là một pháp tu bí-mật của Phật-giáo, dạy về cách bắt-ấn, trì-chú, vv... Pháp-tu nầy có tính-chất liểu-nghĩa (trọn đủ), căn-cứ vào nơi tâm-pháp bí-truyền.

(6)- Hiển-giáo:là những giáo-pháp truyền dạy thoe phương-pháp thông-thường mà ai cũng có thể tu theo được như tụng kinh, niệm Phật, tán-tụng vv...

Ðây là một pháp-tu phổ-thông dành cho chúng-sanh trong thời buổi mạt-pháp khó tu nầy, nương theo tu-học, để dễ-daøng giải-thoát. Pháp-tu nầy chưa được liễu-nghĩa (chưa hoàn-toàn trọn đủ)vì còn căn-cứ trên kinh giáo.

(7)- Chơn-cảnh:tức là cảnh giải-thoát.

(8)- Lễ-phục nghiêm-chỉnh:

- Nếu là xuất-gia thì nên mặc y-hậu.

- Nếu là tại-gia thì nên mặc áo tràng.

(9)- Thường trú: Tức là còn hoài không biến-đổi - Ðây tức là ý của chữ BẤT-SANH, BẤT-DIỆT, BẤT-CẤU, BẤT-TỊNH vv... trong Bát-Nhã tâm-kinh.

(10)- Hàm-linh:Ngậm tánh-linh, tức là các loài chúng-sanh còn có tình-thức, biết buồn giận, ghét thương vv... (như mình hay là các loài thú vật, vậy).

(11)- Ba nghiệp:

-Tức là nghiệp của THÂN (sát, đạo, dâm).

- Nghiệp của KHẨU (nói dối, nói hung-dữ, nói thêu-dệt, nói hai chiều)

- Nghiệp của Ý (Tham, sân, si).

Ðây gọi là thập ác.

(12)- Hữu-tình: tức là hữu-tình chúng-sanh - Ðồng-nghĩa với chữ hàm-linh (ở trên).

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 4896)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 7189)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4224)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4852)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5626)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6210)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3842)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5274)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5342)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13001)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567