Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Phần thứ ba: Cuốn 21-30

23/04/201319:38(Xem: 4593)
3. Phần thứ ba: Cuốn 21-30

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO – HÀ NỘI

PL.2545-Dl.2001

DUY LỰC NGỮ LỤC

QUYỂN THƯỢNG

(TỪ NĂM 1983-1989)

HT. THÍCH DUY LỰC

----o0o---

Phần 3. CUỐN 21-30

Hỏi: Tham thoại đầu phải trụ tâm vào đâu?

Đáp: Tham thoại đầu muốn khởi lên nghi tình phải nhờ câu thoại, câu thoại đầu là cây gậy, nghi tình là đi, cũng như người cụt chân không đi được, phải nhờ cây gậy để đi, khi nào đi đến nơi rồi thì cây gậy không cần nữa, câu thoại tự mất. Tham thiền không phải là muốn ngộ câu thoại đầu, nhiều người lầm tưởng muốn hiểu câu thoại đầu, ấy là sai lầm, đó chỉ là cây gậy giúp cho mình đi, chứ không phải để hiểu cây gậy; hiểu cây gậy để làm gì? Nếu muốn ngộ câu thoại đầu thì Tổ Sư gọi là “con chó đuổi theo cục xương”.

Nói đến “Ngộ” là ở trong chiêm bao thức tỉnh, chứ chẳng phải là giải quyết việc trong chiêm bao. Cây gậy là ở trong chiêm bao, thoại đầu cũng là ở trong chiêm bao, biết mình có tu có chứng cũng là ở trong chiêm bao, thấy Phật đến rờ đầu thọ ký cũng là ở trong chiêm bao ... Việc ở trong chiêm bao, mặc dù giải quyết hết từng món một, vẫn chưa ra ngoài chiêm bao, vẫn còn phải chịu khổ trong chiêm bao. Phải ở trong chiêm bao thức tỉnh rồi mới được giải thoát tất cả khổ trong chiêm bao.

Chữ PHẬT là giác ngộ, tức ở trong chiêm bao thức tỉnh, người nào ở trong chiêm bao thức tỉnh, gọi là kiến tánh thành Phật, cho nên hễ có trụ là không được.

Hỏi: Thế nào là Kiến hoặc và Tư hoặc?

Đáp: Đối với sự hiểu biết của chúng ta, Phật gọi là kiến hoặc hay mê hoặc, tức tri kiến mê lầm, không đúng với sự thật. Cái tư tưởng mê lầm của mình gọi là tư hoặc. Thừa Thanh Văn dứt hết các kiến hoặc và tư hoặc của Tam giới thì được chứng quả A La Hán. Nay chúng ta dùng ý thức đi truy tìm đều là kiến hoặc, những gì tư tưởng của mình cho là đúng, hoặc chủ trương cho rằng Phật Thích Ca là đúng, ấy đều là tư hoặc, hoặc cho rằng Phật Thích Ca chẳng phải chơn thật , cũng là tư hoặc. Cho nên, tham Thiền không cho dùng ý thức phân biệt, nếu không thì tham đến trăm ngàn kiếp cũng không được kiến tánh, vì không lìa được ý thức.

Hỏi: Làm thế nào để nhìn vào hầm sâu đen tối?

Đáp: Theo Kinh Đại thừa liễu nghĩa như Kinh Lăng Nghiêm, có thí dụ “Ngón tay chỉ mặt trăng”. “Ngón tay” là giáo lý kinh điển Phật, “Mặt trăng” là tự tánh: Muốn ngó thấy mặt trăng phải nhờ ngón tay chỉ; mặc dù đã có ngón tay chỉ chỗ mặt trăng, nhưng do mặt trăng bị mây đen che khuất, cũng như tự tánh của mình bị tham sân si, phiền não che lấp, chẳng thấy gì cả, nhưng chính chỗ đen tối không thấy gì đó là chỗ ngón tay chỉ, Thiền tông gọi là “hầm sâu đen tối”, phải nhìn ngay chỗ đó, khi nào có cơ hội, gió thổi tan mây đen thì mặt trăng được hiện ra.

Nay nhiều người chẳng chịu nhìn theo chỗ ngón tay chỉ, mà chỉ nhìn vào ngón tay, muốn ở nơi ngón tay tìm mặt trăng, cũng như ở trong kinh điển tìm tự tánh vậy. Nay tham câu thoại đầu không biết gì cả, cái nghi tình ấy tức chỗ ngón tay chị, tức chỗ hầm sâu đen tốt là chỗ có mặt trăng. Một ngày kia mặt trăng sẽ hiện ra ngay nơi đó.

Hỏi: Thế nào là ban đầu thấy núi sông là núi sông, tu một thời gian rồi thấy núi sông chẳng phải núi sông, sau khi kiến tánh rồi thấy núi sông vẫn là núi sông?

Đáp: Ấy là nghĩa ba câu. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa đều có nghĩa ba câu đó, nhất là Kinh Kim Cang. Lúc đầu thấy núi sông là núi sông, là ở trong thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng của người thường, tu một lúc rồi thấy sự “Có” là huyễn hóa, cho đó là Không, tức núi sông chẳng phải núi sông, vẫn còn ở trong thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng; trước kia thì chấp là phải, sau đó chấp chẳng phải, cũng là trước tưởng. Rồi tu đến cuối cùng được kiến tánh thì trước tưởng hết, chỉ còn thế lưu bố tưởng, cho nên núi sông vẫn là núi sông.

Hỏi: Thế nào là “Một niệm muôn năm, muôn năm một niệm?”

Đáp: Bây giờ chưa kiến tánh, chưa tỏ ngộ thì đừng có cho là một niệm muôn năm hay muôn năm một niệm; nói một niệm muôn năm cũng là chướng ngại, nói muôn năm một niệm cũng là chướng ngại, đều là việc trong chiêm bao. Nếu đã ra ngoài chiêm bao rồi, nói một niệm muôn năm cũng được, nói một là một cũng được, bởi lúc đó chỉ còn thế lưu bố tưởng thôi. Nay hễ nói một niệm muôn năm thì chấp vào một niệm muôn năm; nói muôn năm một niệm thì chấp vào muôn năm một niệm, cứ ở trong thế lưu bố tưởng sanh khởi trước tưởng, cứ nói đến giáo lý cao siêu. Như Ngài Trung Phong nói:”Dẫu cho Phật Thích Ca đem hết tất cả Phật pháp nhét vào bụng ông, cũng còn không dính dáng với sự thức tỉnh, còn là việc trong chiêm bao”.

Hỏi: Tham Thiền để làm gì?

Đáp: Học tham Thiền để làm gì? Để giải quyết vấn đề gì? Sư bà biết không? Là để giải quyết vấn đề của chính mình. Thông thường, mọi người nói đến TA, nhưng cái TA này là cái gì? Cái thân này có phải là TA không? Con nít từ bụng mẹ sanh ra thì chấp cái thân con nít là ta; đến khi lớn lên thì chấp cái thân người lớn là ta, khi tuổi già lại chấp cái thân già ấy là ta, đợi khi chết rồi, đem chôn xuống đất biến thành đất, có thể chấp cục đất đó là ta không? - Không được ư? Nếu cục đất chẳng phải là ta, thì người già chẳng phải ta, người lớn chẳng phải ta, con nít cũng chẳng phải ta, vậy mình giải quyết vấn đề gì? Rõ ràng là chẳng phải giải quyết cái thân này rồi! Vì nó sau này sẽ biến thành đất! Nhiều người dù nghe tôi nói như thế, vẫn chấp thật cái thân này, bởi thân này rõ ràng do cha mẹ sanh ra thì tại sao nói thân này chẳng phải ta!

Nay truy cứu cha mẹ từng lớp một, có cha mẹ đầu tiên không? Nếu có, thì tôi xin hỏi: Cha mẹ đầu tiên có cha mẹ không? Nếu có cha mẹ thì chẳng phải cha mẹ đầu tiên, nếu không thì cha mẹ đầu tiên từ đâu ra? Có nhà khoa học nói là từ một hạt nguyên tử nhỏ tí ti dần dần hình thành con người, cứ tạm cho là đúng đi, thì sự hình thành phải theo từng cấp bậc; như bào thai mười tháng trong bụng mẹ, mỗi tháng có hình tướng khác nhau, đến tháng thứ mười thì hình thành một con người. Đem mười tháng chia thành mười cấp, mỗi cấp có hình tướng riêng biệt. Thế thì muốn hình thành một con người từ một hạt nguyên tử thì chẳng phải chỉ có mười cấp! Nay cho đó là một triệu cấp, mỗi cấp một năm, phải trải qua một triệu năm mới có thể từ một hạt nguyên tử thành một con người. Bây giờ chúng ta chỉ thấy cấp thứ nhất là một hạt nguyên tử và cấp thứ một triệu là một con người, khoảng giữa chẳng ai thấy, vậy chứng tỏ lý này không đúng sự thật! Nay rõ ràng thấy ai cũng có cha mẹ sanh, sao nói không đúng sự thật? Vì không có đời thứ nhất thì không có đời thứ nhì ... đời thứ muôn muôn ngàn ngàn từ đâu sanh ra? Có người cho là do trời tự nhiên sanh ra hai ông bà; hễ xưa tự nhiên thì nay cũng phải tự nhiên, sự thật thì lại chẳng phải như thế, cho nên Đức Phật nói là vô thỉ; chẳng có sự bắt đầu.

- Tại sao Phật nói là không có sự bắt đầu? Lấy gì để chứng tỏ? Nay mặc dù chúng ta chưa kiến tánh, nhưng vẫn chứng tỏ được: Muốn tìm sự bắt đầu thì phải tìm nơi thời gian, tìm mãi tìm mãi, thời gian chẳng có sự bắt đầu. Nếu thời gian chẳng có sự bắt đầu thì vũ trụ vạn vật chẳng có sự bắt đầu, nên nói là “Vô Thỉ”.

- Đã chẳng có sự bắt đầu thì tất cả do đâu mà ra? Phật nói là “Nhất thiết duy tâm tạo”. Nay chúng ta không tin được. Tại sao? Vì nay còn đang ở trong mở mắt chiêm bao chưa thức tỉnh, trong chiêm bao có Phật Thích Ca hiện thân thuyết rằng: “Pháp này chẳng thật, cái bàn này chẳng thật, ghế này chẳng thật, kể cả thân này cũng chẳng thật” thì làm sao tin nổi, bởi cái nào đều có thật chất mà! Đến khi chúng ta tham Thiền kiến tánh rồi, tức từ trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh, lúc đó khỏi cần Phật Thích Ca giải thích , tự mình chứng tỏ những gì có thật chất ấy đều chẳng thật.

Nhắm mắt chiêm bao không cần tu, đến sáng là tự thức tỉnh, còn mở mắt chiêm bao nếu không tu thì không bao giờ thức tỉnh được. Cho nên Phật dạy chúng ta đủ thứ pháp môn tu hành để đi đến thức tỉnh.

- Cũng có người nói rằng “Ta chẳng chấp”, nếu thật sự chẳng chấp thì hãy thử ra ngoài hành lang, nhảy từ lầu ba xuống, xem có dám không? Cho nên, miệng nói là không được, phải thật sự thực hành đến lúc kiến tánh thì sẽ được thức tỉnh. Khi thức tỉnh rồi, sự hiểu biết trong chiêm bao, đúng hay không đúng có ăn thua gì đâu! Giáo lý cao siêu hay thấp kém đều là việc trong chiêm bao. Đã thức tỉnh thì tự do tự tại, chẳng còn bị cảnh giới chiêm bao ràng buộc, đó chính là mục đích của tham Thiền, chứ không phải là muốn chúng ta ở trong chiêm bao học cái này cái kia cho đầy bụng.

- Nay muốn ra ngoài chiêm bao, chỉ việc ôm chặt câu thoại đầu tham tới mãi, một ngày kia thình lình thức tỉnh, tự biết tự chứng tỏ, gọi là chứng ngộ.

Hỏi: Ngay trong giây phút này, con thấy tâm được tự tại, chẳng biết sự tự tại này là do tâm ý thức gạt hay con đã thức tỉnh từ chiêm bao?

Đáp: Dĩ nhiên là ở trong chiêm bao rồi! Kinh Lăng Nghiêm nói: “Cái biết tự tại đó, biết thanh tịnh đó, là cái bệnh đã thành từ vô thỉ”. Theo ngài Trung Phong thì đừng có biết tới gì cả, chỉ đề câu thoại đầu hỏi tới hoài, một ngày kia thức tỉnh thì sự biết đó chẳng phải cái biết bệnh. Bây giờ, biết tự tại cũng là bệnh, biết không tự tại cũng là bệnh.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn nói “Kiến văn giác tri, mắt thấy tai nghe, đều là bệnh đã thành từ vô thỉ”. Nhưng đoạn sau có nói: “Kiến văn giác tri vốn là Như Lai tạng, là tự tánh”, Tự tánh thì chẳng phải bệnh, thế thì làm sao phân biệt cái kiến văn giác tri của Tự tánh, hay kiến văn giác tri của bệnh.

Kiến văn giác tri của Tự tánh vốn chẳng sanh diệt, nó luôn luôn như thế. Còn kiến văn giác tri của bệnh thì có sanh diệt, ví như con mắt thấy là sanh, không thấy là diệt; lỗ tai nghe là sanh, không nghe là diệt; cái ý biết là sanh, không biết là diệt. Còn cái không sanh diệt của Tự tánh chẳng có sự thấy và không thấy, nghe và không nghe, biết và không biết ... Nay có biết tự tại là sanh, không biết là diệt, nên là bệnh từ vô thỉ, chẳng phải cái chẳng sanh diệt của Tự tánh.

Hỏi: Quá khứ đã tạo bao nhiêu tội lỗi thì làm sao nhờ tham Thiền có thể thành Phật được?

Đáp: Nói tội lỗi, nghiệp chướng, ví như căn nhà đen tối, Đức Phật có nói “Dù căn nhà đen tối một ngày đêm, hay một trăm năm, một ngàn năm, đốt cây đèn lên thì đen tối liền hết”. Như đang ở trong nhắm mắt chiêm bao, dẫu cho đi đầu thai thành trâu thành ngựa, theo nghiệp xoay chuyển, cũng là việc trong chiêm bao; Thân trong chiêm bao tạo đủ thứ tội, bị chính phủ bắt, đánh khảo, ở tù ... sợ hãi quá, khi thình lình thức tỉnh thì tù tội trong chiêm bao, kể cả cái thân chiêm bao đi đâu mà tìm? Vì ấy chỉ là do tâm tạo mà thôi!

Cho nên, chư Phật chư Tổ dạy chúng ta cần sự thức tỉnh từ chiêm bao, thì dù sự đen tối chỉ là một đêm (dụ cho nghiệp chướng nhẹ), hoặc một triệu năm (dụ cho nghiệp chướng nặng), chỉ cần cây đèn đốt lên, cùng hết một lượt, chẳng có trước sau.

Hỏi: Tham thoại đầu không cho sử dụng thần thông, trong Kinh Pháp Bảo Đàn, lúc ngài Lục Tổ trải tọa cụ ra, rõ ràng là Ngài sử dụng phép thần thông, vậy có trái với tông chỉ của Thiền tông không?

Đáp: Nói ngài Lục Tổ là pháp thiền tham thoại đầu là không đúng, có người hỏi tôi: “Tại sao Kinh Pháp Bảo Đàn không có dạy người tham Thiền?” Tôi trả lời: “Nếu Lục Tổ dạy người tham Thiền thì Ngài đã không đủ tư cách làm Tổ rồi”, bởi vì vào thời đại của ngài chỉ là dùng thủ đoạn để khiến người khởi lên nghi tình mà chẳng tự biết mình đang tham thiền, gọi là “Vô tham tức chơn tham”. Vô tham chẳng phải không có tham, là không biết mình đang tham.

Nói đến thần thông, chẳng những Lục Tổ, Phật Thích Ca trong các Kinh Đại thừa liễu nghĩa đều có hiện tánh thần thông, nhưng đó là vì hóa độ chúng sanh, muốn khiến chúng sanh tin rằng tự tánh của mọi người đầy đủ thần thông biến hóa, vô lượng vô biên, chẳng kém Phật chút nào. Ví như trước khi giảng Kinh Pháp Hoa, Phật thị hiện thần thông, phát ra ánh sáng chiếu khắp mọi thế giới ... Phải biết, những thần thông đó mọi người sẵn đủ, không cần học, hễ có học là có sự thiếu sót vậy.

Thiền tông chỉ khi nào bất đắc dĩ mới hiện thần thông, các vị Tổ hễ hiện thần thông rồi thường là thị tịch liền, hễ đệ tử hiện thần thông thì bị thầy quở, nếu không nghe lời, vẫn tiếp tục hiện thần thông thì bị thầy đuổi. Lục Tổ trải tọa cụ hiện thần thông, vì cần có đạo tràng để hóa độ, lợi ích cho chúng sanh, chứ chẳng phải muốn khoe tài và có cái ngã chấp, tất cả đều chỉ là phương tiện của Phật, của Tổ, chớ nên chấp vào chỗ đó.

Chánh pháp cần sự giải thoát, tức từ trong chiêm bao thức tỉnh, chẳng phải để luyện tập thần thông khiến còn mê thêm, chướng ngại sự thức tỉnh.

Hỏi: Phật Thích Ca thành đạo cách đây 2519 năm hay từ vô lượng kiếp? cái nào đúng?

Đáp: Có người hỏi “Phật Thích Ca thành Phật cách đây 2519 năm, tại sao trong Kinh Pháp Hoa lại nói là Phật đã thành đạo từ vô lượng kiếp?” , vậy cái nào đúng? Tôi trả lời: “Cả hai đều không đúng”. Tại sao? Vì theo sự thật, Kinh nói “Chúng sanh là Phật”, “Tự tánh vốn là Phật” thì không thể biến thành chúng sanh; nếu tự tánh vốn là chúng sanh thì tu cách nào cũng chẳng thể thành Phật. Vậy tự tánh chẳng phải chúng sanh, chẳng phải Phật thì làm sao có cái gọi là “Chúng sanh thành Phật?” Sự thành Phật chỉ là phương tiện để giáo hóa chúng sanh thôi. Cho nên, nói “thành Phật từ vô lượng kiếp” cũng được, nói “thành Phật hai ngàn mấy năm” cũng được. Bởi vậy Phật mới nói là “nhất thiết duy tâm tạo”, tâm tạo thì chẳng thật.

Hỏi: Làm sao dứt được tập khí từ lâu đời?

Đáp: Tập khí đã quen từ vô thỉ đến bây giờ, nên rất khó bỏ. Ngài Lai Quả nói: “Vì tập khí vọng tưởng đã quen từ xưa đến nay, mà câu thoại đầu còn mới lạ, nên phải tập cho câu thoại đầu quen; thoại đầu quen được một ngày thì vọng tưởng lạ đi một ngày, thoại đầu quen được một năm thì vọng tưởng lạ đi một năm. Đến khi thoại đầu quen thuộc lắm rồi thì vọng tưởng sẽ nổi lên không được”.

Chớ nói là chưa kiến tánh, người đã kiến tánh, phá được Sơ quan rồi tập khi cũng chưa hết, phá được Trùng quan rồi tập khí vẫn còn, phải tới Lao quan mới sạch hết. Sạch hết là hết tập khí thế gian, còn tập khí xuất thế gian phải đến khi chứng quả Phật mới hết được. Nhưng đã kiến tánh rồi thì sự tu đã hết, như chiếc ghe gần vào bờ, bỏ chèo bỏ chống, tự nó đi vào. Chỉ cần mình được kiến tánh, sau khi kiến tánh, mặc dù còn tập khí, nhưng dần dần sẽ hết. Cho nên, sau khi ngộ rồi cần có phần bảo nhiệm để dứt tập khí.

Hỏi: Thế nào là thân tại gia, tâm xuất gia và thân xuất gia, tâm tại gia?

Đáp: Tại gia và xuất gia có bốn thứ: Có người thì thân tại gia mà tâm xuất gia, có người thì thân xuất gia mà tâm tại gia, người thì thân tâm đều xuất gia, người thì thân tâm đều tại gia. Nếu như thân tại gia, tâm xuất gia là hơn người thân xuất gia mà tâm tại gia; hễ thân tâm đều xuất gia là tốt hơn, còn thân tâm đều tại gia thì không cần nói.

Kỳ thật, tu hành thì tại gia cũng tu được, xuất gia cũng tu được, không nhất định phải xuất gia mới là tu, nhất là pháp môn tham Thiền này, bất cứ lúc nào, nơi nào cũng tham được, đi đứng nằm ngồi làm công việc bằng tay chân, trí óc, đang ăn cơm, ngủ nghỉ ... chứ không cần ngồi một chỗ vắng lặng mà tu, tại gia xuất gia đều chẳng chướng ngại.

Nếu chấp rằng nhất thiết phải tại gia, hoặc nhất thiết phải xuất gia mới tu, ấy là chấp trước, chướng ngại. Có người nói “Tôi không chấp”, chẳng biết rằng nói như thế vẫn còn là chấp, nếu người không còn chấp thì chẳng có câu nói này.

Hỏi: Tại sao Tôn Giả Sư Tử đã kiến tánh rồi còn phải trả nghiệp?

Đáp: Tôi đã nói: Việc ở trong nhắm mắt chiêm bao không có thật, cái thật là mình phải thức tỉnh; còn ở trong chiêm bao thì chỉ biết việc trong chiêm bao, chứ không biết việc của thức tỉnh. Tôn Giả mà người ta thấy ngài trả nghiệp, ấy là việc trong chiêm bao. Cũng như hỏi “Phật Thích Ca thành Phật từ vô lượng kiếp hay chỉ có hai ngàn năm”, đó là việc trong chiêm bao, Sư Tử Tôn giả cũng vậy muốn cho người ta tin nhân quả, nên nói là trả nghiệp, sự thật thì người đã thức tỉnh rồi, làm sao còn trả nghiệp trong chiêm bao ư?

Hỏi: Nghi tình của câu thoại đầu và cái nghi của tham sân si mạn, có khác nhau không?

Đáp: Khác. Cái nghi của tham sân si mạn chỉ khiến mê lại thêm mê, còn nghi tình là cái nhân của ngộ. Cái nghi của tham sân si mạn là không tin, còn nghi tình là do tin mà sanh nghi, khi đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình thì tất cả những tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến đều tự động quét sạch, chứ không cần khởi niệm muốn quét.

Hỏi: Dùng câu “Thế nào là đại ý Phật pháp” của Tổ Lâm Tế để tham, có được không?

Đáp: Theo tôi biết thì không được, vì đó là công án của Lâm Tế, không phải là thoại đầu. Đối với đại ý của Phật pháp, Giáo môn không có tham thiền, chỉ cần học qua giáo lý, cũng biết đại ý của Phật pháp, biết rồi thì làm sao khởi lên nghi tình? Còn về thoại đầu, ví như câu “Trước khi chưa có trời đất ta là cái gì?”, câu này thì học làm sao hiểu được? phải tham đến ngộ mới hiểu.

Hỏi: Tham Thiền có vượt ra ngoài nhân quả không?

Đáp: Nhân nào quả nấy, nhân quả mỗi người mỗi khác, có thể sửa đổi nhân quả chứ không thể vượt ra ngoài nhân quả.

Làm sao sửa đổi nghiệp nhân? Ví như kiếp trước đã tạo cái nghiệp nhân chết đói, kiếp này phải trả quả. Lúc tạo nghiệp nhân khiến người ta chết đói, tâm lực chỉ có một độ, kiếp này chẳng có tu hành, tâm lực vẫn chỉ có một độ, thì nghiệp quả chết đói là định nghiệp, thế nào cũng phải trả. Bây giờ chuyên tâm tham thiền, khiến tâm lực lên hai độ ba độ, năm độ, mười độ ... thì nghiệp nhân lúc một độ được kéo lại sau, kiếp này khỏi bị chết đói nữa. Tại sao? Vì tất cả do tâm tạo, hễ nhân nào mạnh thì quả đến trước, nhân yếu quả kéo sau, ví như người thế gian thiếu nợ, thế lực của ai mạnh phải trả trước, thế lực yếu trả từ từ. Nếu tâm lực ngưng ở mười độ, không còn tham tiếp, khi nhân quả lúc mười độ trả hết, sẽ đến chín độ, rồi tám độ dần dần đến một độ. Nếu cứ tham mãi, tâm lực tăng dần từ mười độ, hai mươi độ, một trăm độ, một triệu độ ... đến thành Phật, thì nhân quả lúc một độ không thể hiện hành, nhưng nghiệp nhân vẫn còn. Đến khi thành Phật rồi, tất nhiên độ hết tất cả chúng sanh, và dĩ nhiên chủ nợ được độ trước, lúc đó nghiệp nhân mới hết, chứ không có vượt ra ngoài nhân quả, bất quá là sửa lại trước hay sau thôi.

Hỏi: Nhập thất ba năm tham Thiền được không?

Đáp: Tổ sư Thiền có câu “Bất phá trùng quan bất bế quan”, sau khi phá Trùng quan rồi, chưa tới mạt hậu Lao quan, còn phải qua sự bảo nhiệm, nhập thất là để bảo nhiệm sự ngộ của mình, chứ không phải là nhập thất để tu, để tinh tấn. Người Việt Nam gọi “bế quan” là nhập thất, kỳ thật, nhập thất là có hại mà chẳng có lợi. Tại sao? Vì chúng ta tu là phải đối cảnh mà chẳng bị nhiễm, mới là tu; còn hễ nhập thất thì không có đối cảnh, tưởng là yên ổn, đến khi ra ngoài trở lại thì còn hơn hồi chưa nhập thất, nên không đúng với sự tu.

- Đây có một công án về sự tu nơi vắng lặng: Một ông tu sĩ dẫn theo một đứa bé tu ở trên núi, trải qua hai mươi năm, đứa bé đã trưởng thành, suốt ngày chỉ có hai thầy trò và các thú rừng. Một ngày kia, thầy dẫn trò xuống núi đi chợ, người trò cảm thấy thứ gì cũng lạ, hỏi thầy đủ thứ: cái này là cái gì? cái kia là cái gì? ... đến khi gặp cô gái, bèn hỏi thầy:

- “Đây là cái gì?”

Thầy bảo: “Con chỉ biết con cọp trên núi, đây là con cọp chợ rất nguy hiểm, không được đến gần!”

Sau khi trở về núi, thầy hỏi trò:

- Trong chuyến đi chơi vừa rồi, con có thích thú không?

- Con chẳng ham thích gì ngoài con cọp chợ!

Câu chuyện trên chứng tỏ hễ đối cảnh thì tâm khởi, nên nói nhập thất là không tu được.

- Trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả cũng kể qua câu chuyện “Lão bà đốt am”, do vị tu sĩ ấy chấp cái nhập thất, sau bị lão bà đối cả am rồi mới ngộ, chứ sự ngộ không phải do nhập thất. Người đời nay cứ cho là tu nhập thất lâu chừng nào tốt chừng nấy, ấy là sai.

- Sẵn dịp, tôi nói luôn vấn đề “Mười bức chăn trâu”, người đời lầm tướng là của Thiền tông, ấy là sai lầm. Hai chữ “chăn trâu” ở Thiền tông nghĩa là bảo nhiệm, chứ không phải tu theo từng cấp bậc, vì thiền tông là không tu theo cấp bậc, cái đó có thể là của Giáo môn.

Hỏi: Nếu không nhập thất ngồi tham, với cái tâm như người thế gian thì hằng ngày làm sao tu? Đến khi nào mới ngộ?

Đáp: Trong Đường lối Tham thiềncũng đã nêu ra; đời nay có hai việc bị ngộ nhận: Một là cho ngồi thiền là tham thiền, hai là phải tu ở chỗ vắng lặng. Thật tế thì ngồi chỉ để điều thân chứ không phải tham thiền cần ngồi. Như trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Thiền sư Trí Hoằng ngồi suốt hai mươi năm chẳng khởi một niệm; trước khi Mã Tổ gặp Tổ Hoài Nhượng cũng chấp ngồi mãi, tưởng là có thể thành Phật, thành Phật đâu phải do ngồi!

Còn hễ chấp phải tu nơi vắng lặng, thì câu chuyện “con cọp chợ” đủ để chứng minh. Lai Quả Thiền sư nói: “Chẳng thà ngủ ở nơi tòng lâm, hơn là một mình tu ở trên núi”, vì ngủ ở trong tòng lâm mặc dù chưa kiến tánh, nhưng không có nguy hiểm. Một mình tu trên núi dễ xảy ra nguy hiểm; có người tu đến phát điên, người thì đau tim ói máu, vì không có điều thân, nhất là không phá ngã chấp.

- Muốn kiến tánh thành Phật phải phá ngã chấp, chứ không cần tu chỗ vắng lặng. Lúc tu ở chỗ vắng lặng thấy tốt lắm, nhưng hễ bước ra ngoài, gặp cảnh tâm liền bấn loạn, thì sự tu đó cũng nhưng không có tu vậy. Phải đối cảnh không bị nhiễm mới là tu. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tại sao lấy “Liên Hoa” làm tên? Vì sanh nơi bùn lầy ô uế mà chẳng nhiễm, ấy mới là tốt, nếu sanh nơi đất trong sạch thì đâu còn gì để nói!

Hỏi: Thế nào là biệt niệm? Khi nào mới hết biệt niệm? Có phương tiện nào không?

Đáp: Khi đề khởi câu thoại đầu khởi lên nghi tình, ngoài nghi tình ra, tất cả đều là biệt niệm, mặc dù niệm đó cao hơn Phật, hoặc muốn làm Phật sự lớn, độ hết tất cả chúng sanh; hoặc khởi niệm muốn tinh tấn, muốn thoại đầu miên mật, muốn trừ vọng tưởng ... cũng là biệt niệm. Bất cứ niệm đó đúng hay không đúng, lợi ích hay không, đều là biệt niệm, chướng ngại sự tham thiền.

Chư Tổ Thiền tông không có phương tiện gì, không được dùng phương tiện để dứt biệt niệm. Có một công án như sau:

Một ni sư tham câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?” Tham nhiều năm mà chẳng thấy gì, câu thoại thì lạt lẽo, cứ theo thầy hỏi “Có phương tiện gì khác không?”

Hỏi mãi, thầy trả lời: “Có”.

Ni sư mừng rỡ, hỏi: “Xin thầy chỉ dạy cho!”

Thầy nói: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì?” Ni sư liền ngộ.

Hỏi: Thế nào là tham thiền tức trì kinh? Tụng kinh và trì kinh khác nhau ở chỗ nào?

Đáp: Biên chép đọc tụng có thể nói là đang nghe Phật thuyết pháp, mình đọc tụng thì tự mình nghe tiếng mình, tức nghe Phật thuyết pháp. Do nghe Phật thuyết pháp mà được tín giải (tin và hiểu) là khai Phật tri kiến, do tín giải mà thọ trì là thị Phật tri kiến. Thọ trì là lãnh thọ và thực hành đúng như pháp, chứ không phải đọc tụng là trì kinh, đọc tụng mà không thực hành thì làm sao gọi là trì kinh? Do chứng đắc mà thành Phật, gọi là nhập Phật tri kiến.

Nhưng Phật tri kiến là gì? - Là chẳng lập tất cả tri kiến. Cho nên, Tiểu thừa dứt hết tất cả kiến hoặc nơi dục giới thì chứng quả Tu Đà Hoàn. Người đời nay cứ tìm hiểu tri kiến, nên bị chướng ngại thêm.

Hỏi: Sư phụ không thừa nhận là bậc Thiền sư, mà chỉ là một vị lão tham, nhưng sự giảng dạy của Ngài rõ ràng đã vượt ra ngoài sự tham. Xin hỏi Ngài đã chứng quả hay chưa?

Đáp: Tôi đã công khai nói là tôi chưa chứng quả, và không có được cái gì cả. Vì điều thứ nhất trong Đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiềnlà phải phá ngã chấp, là vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ; chẳng phải là tôi có chứng đắc mà nói là không có chứng đắc, sự thật là tôi chưa chứng đắc. Tôi cũng là bị sự hiểu biết chướng ngại, gọi là sở tri chướng. Tôi đã bị hại rồi, nên không dám hại người khác nữa!

Theo lời của ngài Lai Quả trong Thiền Thất Khai Thi Lục nói: “Quên là tiến bộ”, quên thế giới, quên thân tâm, cả tên họ của mình cũng quên, mới hy vọng kiến tánh được.

Hỏi: Trong lúc đang tham thấy các cảnh giới an ổn, song làm mất câu thoại đầu, vậy có phải thiền bệnh không?

Đáp: Lúc cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh, không có nghi tình cũng không có vọng tưởng, ấy là lọt vào vô ký không. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu đang lúc cảnh giới an ổn, không có cái thân mà chẳng chấp thì là cảnh giới tốt, nếu cho là tốt, ấy tức là tà”. Người tham Thiền đến khi vọng tưởng bớt rồi, thấy đủ thứ cảnh giới hiện ra; chẳng những việc trong kiếp này, kể cả những kiếp trước cũng có thể hiện ra, nhưng đừng biết tới, chỉ đề câu thoại đầu tham tới mãi.

Hỏi: Trong lúc tham, câu thoại bị gián đoạn lúc nào chẳng hay, hoặc tự khởi lên lúc nào cũng chẳng hay, vậy có sao không?

Đáp: Phải tham liên tục mới tốt, nếu như ngưng tham lúc nào chẳng hay, khi biết được phải liền đề khởi câu thoại tham trở lại, có người chỉ mới đề lên một câu, thấy có nghi tình thì ngưng đề, một lát sau mới đề thêm một câu nữa, như vậy là có sự gián đoạn, là do mình không liên tục đề câu thoại. Phải đề liên tục, miên mật cho thành thói quen thì không bị ngưng.

Có người không đề câu thoại vẫn có nghi tình, cho vậy là tốt, cũng không được. Nói “Thoại đầu” là phải khi đến thoại đầu, câu thoại tự mất, nếu chưa đến thoại đầu mà bỏ câu thoại, mặc dù có nghi tình, nhưng bị ngưng lúc nào chẳng hay, đến khi biết được đã bị gián đoạn một thời gian dài rồi. Cho nên, nếu chưa đến thoại đầu thì không được bỏ câu thoại, phải đề nguyên câu thoại đầu, khi nào câu thoại tự mất mới thôi.

Hỏi: Có phải trong Thiền tông tự mình tìm kiếm tri kiến Phật?

Đáp: Tổ Sư Thiền là giáo ngoại biệt truyền, khác hơn pháp quán của Giáo môn. Còn nói “Thiền tông phải tự tìm kiếm tri kiến Phật”, sự tìm kiếm ấy đã là bệnh rồi! Tổ Sư Thiền là không cho tìm hiểu, chẳng những không cho tìm hiểu cái khác, kể cả tìm hiểu Tổ Sư Thiền, câu thoại đầu cũng không được, hiểu thiền hiểu đạo cũng không được. Tôi đã nói tham Thiền là chánh nghi, có tâm đi tìm hiểu là hồ nghi, còn nói “tự đi tìm tri kiến Phật”, ấy là đại vọng ngữ, vì Tổ Sư Thiền là vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ không cho cầu, cũng không cho có ý muốn chứng đắc, hoặc sợ rằng mình không chứng đắc, sợ ngộ rồi chẳng ai ấn chứng v.v... cũng không được.

Hỏi: Hiện nay phát sinh nhiều loại thiền, đều nói là tu theo Phật pháp, vậy loại nào đứng loại nào sai? Mười tông phái ở Trung Quốc nay chỉ nghe có bốn tông, sáu tông kia còn tồn tại không?

Đáp: Mười tông phái ấy là: Đại Thừa tám tông, gồm: Thiền, Tịnh, Mật, Luật; Giáo môn 4 tông: Thiên thai, Hiền thủ, Tam luận, Duy Thức và Tiểu thừa hai tôn: Thành Thật và Câu Xá, nhưng hai tông này chỉ có danh nghĩa mà chẳng có phần thực hành.

Nói tóm lại, Giáo môn là vừa tìm hiểu vừa thực hành, khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Còn Thiền tông chỉ chú trọng phần thực hành, là muốn chúng ta ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh, thì khổ trong chiêm bao liền dứt. Chư Phật đều mong mọi chúng sanh thành Phật, nếu không thì như Trung Phong Pháp Ngữ nói: “Dẫu cho Phật Thích Ca đem hết tất cả kinh điển giáo lý nhét đầy bụng ông, cũng chẳng dính dáng đến vấn đề sanh tử”.

Hỏi: Khi tỉnh giác rồi, cái thân vẫn còn, có phải gọi là Hữu dư Niết bàn? Và sau khi chết gọi là Vô dư Niết bàn?

Đáp: Còn cái thân cũng chẳng phải Hữu dư Niết bàn; mất cái thân cũng chẳng phải Vô dư Niết bàn. Nay chúng ta chưa thức tỉnh, từ thân này sang thân khác, mất thân người sang thân thú, đâu phải Niết bàn! Niết bàn là lìa khỏi sanh tử rồi mới gọi là Niết Bàn, nếu nói không có thân tức Niết bàn thì tất cả Cõi Vô Sắc đều là Niết bàn sao? Vô Sắc Giới dù không có sắc thân, nhưng vẫn còn chấp A Lại da thức là ta, còn là phàm phu, còn ở trong lục đạo luân hồi. Nếu không phá ngã chấp là còn phải ở trong luân hồi.

Nói đến “tỉnh giác”, ngoại đạo cũng có tỉnh giác, các giáo chủ Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo, Bà La Môn giáo v.v... đều có sự tỉnh giác. Ví như tọa thiền giác ngộ, tự cho mình đã giác được chơn lý tối cao, tự làm giáo chủ để sáng lập ra một giáo phái. Vì còn chấp ngã, không được giải thoát, nên Phật giáo gọi đó là ngoại đạo.

- A La Hán phá được ngã chấp nên ra khỏi sanh từ luân hồi, nhưng sự giác ấy chưa thể bằng Phật, chưa đến Chánh Đẳng, phải bậc Bồ Tát mới đến Chánh Đẳng. Sự giác ngộ của Bồ tát mặc dù bằng Phật, nhưng sức dụng kém hơn Phật nhiều, nên không được gọi là “Vô thượng”, đến khi chứng quả Phật rồi mới gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

- Nói tóm lại, tỉnh giác cũng có nhiều loại, không phá ngã chấp chỉ là tà giác, phá được ngã chấp mới gọi là Chánh giác.

Hỏi: Về việc tìm Tổ ấn chứng như thế nào?

Đáp: Thời nay có nhiều người tự làm tài khôn, cho mình đã ngộ, hoặc cho sự giải ngộ là chứng ngộ, hoặc thấy cảnh giới này cảnh giới kia cũng cho là ngộ, hoặc do ham danh, chưa chứng mà nói đã ngộ, đi tuyên truyền khắp nơi, theo giới luật thuộc đại vọng ngữ. Nếu là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, phạm đại vọng ngữ là mất thân phận Tỳ kheo, phải đến kiếp sau thọ giới Tỳ kheo lại; mà đâu chỉ là mất rồi là xong, còn phải chịu tội địa ngục, nên sau khi ngộ phải có Thiện tri thức ấn chứng.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Nếu nói nhất định phải có thiện tri thức ấn chứng cũng không đúng, là những người tăng thượng mạn mới cần thiện tri thức ấn chứng”. Nếu không phải người tăng thượng mạn, chỉ cần thực hành đúng theo VÔ SỞ ĐẮC không muốn người ta biết về sự ngộ của mình thì không ai ấn chứng cũng được.

Hỏi: Có biện pháp nào giải quyết tình trạng cho giải ngộ là chứng ngộ?

Đáp: Những người cho giải ngộ là chứng ngộ là người tăng thượng mạn. Sự giải ngộ là của người khác; lấy lời của Phật của Tổ cho là giải ngộ của mình, chấp vào đó là vô phương cứu. Muốn cứu họ phải phá được cái chấp về giải ngộ của họ, phải tham câu thoại đầu khác, nếu không thì dù Phật Thích Ca cũng cứu chẳng được.

Hỏi: Trong Chứng Đạo Ca có câu “Sát na diệt khước A Tỳ nghiệp”, thế thì các Tổ sư như Tôn giả Sư Tử ở Ấn Độ, Nhị Tổ Huệ Khả, Tổ Nham Đầu và gần đây có ngài Hư Vân Thiền sư, các vị ấy đã kiến tánh sao lại còn bị gia hình?

Đáp: Trong Truyền Đăng Lục, có vị Tăng hỏi Tổ sư:

- “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không”, tại sao các Tổ sư lại bị gia hình sau khi kiến tánh?

Tổ đáp: Đại đức còn chưa hiểu “Bổn lai không”.

- Thế nào là bổn lai không?

Đáp: Nghiệp chướng đó!

Lại hỏi: Thế nào là nghiệp chướng?

Đáp: Bổn lai không!

Nghiệp chướng vốn là không, chứ không phải là không có xảy ra hiện tượng đó. Cũng như việc chiêm bao vốn là không, chứ chẳng phải không có chiêm bao. Thấy việc chém đầu là việc trong chiêm bao, khi thức tỉnh rồi thì tìm ở đâu? Thức tỉnh rồi đầu vẫn còn nguyên vẹn.

Hỏi: Trong kinh tại sao hay nói bảy đời cha mẹ mà không phải tám đời, chín đời?

Đáp: Không những bên Phật Giáo, các tôn giáo khác cũng thường lấy số 7 làm ước số, ví như Thiên Chúa Giáo đặt cho một tuần lễ là 7 ngày, Phật giáo thì không nhất định là số 7, cũng như Tam giới, cửu địa, cửu huyền thất tổ v.v... kỳ thật, chẳng những số lượng không đại diện cho cái gì, kể cả cái tên gọi của mình! Khi sinh ra, ai cũng được cha mẹ đặt cho cái tên, hễ người khác tán thán cái tên này thì vui mừng, hễ chê cười thì buồn rầu tức giận ... thật ra, khi mình sinh ra đâu có tên, mà chấp cái tên đó là thật!

Cho nên Triệu Luậnnói: “Tên không đúng với sự thật, sự thật cũng không đúng với cái tên”, 7 đời hoặc 7 ngày, 6 ngày đâu có dính dáng gì? Sự thật đâu phải do số lượng hoặc tên gọi, cái hiệu mà diễn tả được?

Ở trên tôi đã nói: “Lời nói của Đức Phật chỉ có thể nói ra cái ‘không đúng’ mà thôi, những cái ‘đúng’ đó nói không được, phải do mình tự ngộ”. Những người Giáo môn nghe tôi nói “Lời của Phật nói ra đều không đúng”, cho là tôi phỉ báng Phật pháp, phỉ báng Tam Bảo, nhưng sự thật là vậy, cái đúng phải tự ngộ. Chính Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa”.

Vậy không đúng còn nói ra làm chi? - Nói ra để chúng sanh biết những cái mà mình chấp là thật đó đều chẳng phải thật; tất cả sự hiểu biết của mình, tất cả tư tưởng, chủ trương của mình đều không phải thật, chớ có hướng vào chỗ đó nghiên cứu tìm cầu, phải hướng vào tự tánh tự ngộ. Cho nên Triệu Luậnnói: “Nếu đuổi theo lời nói là chấp danh, ghi nhớ việc quá khứ là chấp tướng”, Thiền tông gọi là con chó đuổi theo cục xương.

Hỏi: Tại sao Thiền sư Minh Bổn trong Trung Phong Pháp Ngữnói là “Hãy cúng dường chính mình?”

Đáp: Phật pháp nói đến vấn đề cúng dường có hai mặt: Một là chơn, một là tục. Về phần Chơn thì phải cúng dường Tự tánh Phật của mình là tốt nhất, còn cúng dường Tam Bảo thuộc về phần tục, nhưng cũng là giúp cho cái chơn. Ví như hiện nay nếu không ai cúng dường Tam Bảo thì đâu còn chùa chiền để chúng ta tu hành, tham Thiền ngộ Tự tánh? Ai dạy? Nên phải nhờ đến Tam Bảo. Cho nên, nói Thường trụ Tam Bảo có hai thứ: Tượng Phật thay thế cho Phật Bảo, Kinh sách thay thế cho Pháp Bảo, Tu sĩ thay thế cho Tăng Bảo, nếu không nhờ thường trụ Tam Bảo, làm sao giác ngộ được Tự tánh Tam Bảo? Phật pháp nói “Bất thủ bất xả”, chẳng phải chỉ cần nơi thường trụ Tam Bảo mà bỏ tự tánh Tam Bảo, cũng chẳng phải chỉ cần nhận lấy Tự tánh Tam bảo mà bỏ thường trụ Tam Bảo, vì hai thứ đều tương trợ lẫn nhau, chứ không được lấy cái này bỏ cái kia.

Hỏi: Cúng dường như thế nào là đúng pháp?

Đáp: Trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Phật nói: cúng dường một trăm người ác không bằng cúng dường một người thiện; cúng dường một ngàn người thiện không bằng cúng dường một cư sĩ thọ ngũ giới; cúng dường mười ngàn cư sĩ thọ ngũ giới không bằng cúng dường một Sa di; cúng dường một trăm ngàn Sa di không bằng cúng dường một Tỳ kheo; cúng dường một triệu Tỳ kheo không bằng cúng dường một người đã chứng sơ quả Tu Đà Hoàn thừa Thanh Văn; cúng dường mười triệu Tu Đà Hoàn không bằng một Tư Đà Hàm ... Cứ từng lớp từng lớp lên, đến cuối cùng, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật không bằng cúng dường một người vô tâm, vô tu vô chứng.

Tại sao cúng dường vô lượng vô biên chư Phật không bằng cúng dường một người vô tâm, vô tu

vô chứng? Như tôi thường nói, lời của Phật là muốn tất cả chúng sanh đều thành Phật, muốn thành Phật thì mỗi mỗi phải ngộ tự tánh, tự tánh thì chẳng phải tu chẳng phải chứng. Mục đích của mình cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, cũng là vì muốn ngộ tự tánh, cho nên, cuối cùng là mỗi chúng sanh đều phải tự ngộ tự tánh, mới là cao nhất. Tất cả sự cúng dường đều qui về tự tánh. Tự tánh thì chẳng có tác ý phân biệt, hễ khởi ý phân biệt tức chẳng thể qui về tự tánh vậy.

Cúng dường thế nào mới là đúng? Không được chấp nhất định chỗ đúng, cần nhất là tham câu thoại đầu khởi lên nghi tình, ngoài ra không được nổi niệm phân biệt để lựa cái nào cao nhất, chỉ là tùy duyên mà thôi.

Cũng có kinh nói “Cúng dường một vị Phật cao nhất, không bằng cúng dường một người ăn xin”. Tại sao? Như thế có mâu thuẫn với Kinh Bốn Mươi Hai Chương không? - Tất cả đều không có mâu thuẫn, hễ có chấp mới thành mâu thuẫn, không chấp thì không mâu thuẫn. Tất cả lời Phật, lời Tổ đểu là phá sự chấp thật, nếu chấp vào lời phá chấp của Phật thì không đúng rồi.

Hỏi: Lúc tham Thiền hay bị ngoại cảnh lôi kéo, phải làm sao?

Đáp: Theo Lai Quả Thiền sư Thiền Thất Khai Thị Lục, bất cứ nghiêng về chỗ nào cũng không được; chẳng những không được thích chỗ vắng lặng mà tham, cũng không được lựa chỗ động mà khởi công phu, tịnh cũng chướng ngại không được, động cũng chướng ngại không được sự tham Thiền của mình, mới không bị ngoại cảnh lôi kéo. Nhiều người tham thiền đang trong lúc tham hay bị ngoại cảnh lôi đi, người thì quên cả sự tham, người thì theo cảnh đó mà tham, hoặc nghe theo tiếng động mà tham, đều là chướng ngại, phải cảnh nào cũng tham như thế, chỉ là đề câu thoại khởi lên nghi tình, ngoài ra không biết tới, mới có thể đạt đến công phu thành khối.

Hỏi: Tự tánh là gì? Làm sao nắm chắc?

Đáp: Bây giờ nhiều người hiểu lầm hai chữ TỰ TÁNH: Do phương tiện nên nói mỗi chúng sanh đều có tự tánh, nhưng chẳng phải là tôi có cái tự tánh của tôi ông có cái tự tánh của ông, người kia có cái tự tánh kia ... Nếu thế thì chỉ là ngã chấp chứ chẳng phải tự tánh. Vì Tự tánh là giác ngộ, hễ giác ngộ là phá hết ngã chấp, đâu còn cái tự tánh của người này người kia? Nên Phật nói “Tất cả pháp đều chẳng có tự tánh”.

Tại sao trước nói “chúng sanh đều có tự tánh”, bây giờ lại nói “tất cả pháp đều không có tự tánh?” Ấy có mâu thuẫn không? Lại, nói “Tự tánh bất nhị” là thế nào ?

Đã nói tự tánh bất nhị, nếu có một pháp nào có tự tánh tức thành nhị rồi! Nếu tôi có tự tánh thì tất nhiên ông cũng có tự tánh, ấy là nhị rồi! Bởi do mỗi pháp mỗi khác, vì tất cả pháp đều không có tự tánh, cho nên bất nhị.

Hỏi: Vậy ngộ ngã chấp như thế nào?

Đáp: Ngã chấp là có người này người kia, tôi khác hơn ông, ông khác hơn tôi; tôi khác hơn ông, ông khác hơn tôi; kết quả của tôi chẳng phải kết quả của ông ... Tự tánh là phải phá hết ngã chấp mới ngộ nhập được, phá hết ngã chấp thì không có tôi, không có ông để chấp thật, cũng chẳng có Phật để thành. Sở dĩ Phật pháp khác ngoại đạo là vì phá được ngã chấp, nên mới ra khỏi sanh tử luân hồi. Do đó, người nào muốn tu chánh pháp, đều phải lấy PHÁ NGÃ CHẤP làm căn bản.

Hỏi: Câu chuyện Tổ Đức Sơn và ông tăng người nước Hàn như thế nào?

Đáp: Ngài Đức Sơn nổi tiếng bởi cây bảng Đức Sơn, hễ ai hỏi pháp, chưa mở miệng là gậy đập xuống đầu. Ở thiền đường Trung Quốc, mỗi ngày có hai lần tảo tham, cả một - hai ngàn người, tất cả chúng đứng hai bên, ai muốn hỏi thì đứng ra chính giữa, đánh lễ ba lạy rồi hỏi. Một hôm Tổ thăng tòa nói:

Hôm nay tôi không trả lời, ai hỏi thì đánh ba mươi gậy!

Có một vị tăng ra đảnh lễ, vừa đảnh lễ là Tổ hét: “Cho ba mươi gậy!”

Tăng nói: Con chưa mở miệng hỏi, sao lại đánh ba mươi gậy?

Tổ hỏi: Ông là người gì?

- Con là người nước Hàn.

Tổ nói: Ngay từ lúc ông chưa bước chân lên tàu đã đáng ba mươi gậy rồi, đâu cần đợi đến đây mới đáng ba mươi gậy!

Thủ đoạn của Tổ chỉ là muốn chúng ta cắt đứt sự tìm hiểu để ngộ được Tự tánh, cho nên bất đắc dĩ dạy tham công án, thoại đầu để khởi lên nghi tình, cắt đứt sự tìm hiểu.

Hỏi: Thế nào là hồi hướng?

Đáp: Hai chữ HỒI HƯỚNG là phá ngã chấp. Thời nay nhiều người hiểu lầm, lấy hai chữ hồi hướng cho là “lấy cát công đức của tôi, hồi hướng cho ông này ông kia ...”, ấy là ngã chấp, mà chẳng biết trong Giáo môn có Thập Hồi Hướng, phá hết ngã chấp rồi lên Sơ địa.

Thế thì nghĩa Hồi hướng là gì? Là mặc dù những công đức bố thí cúng dường do tôi làm ra, nhưng không phải là của tôi, là của tất cả chúng sanh, trong đó bao gồm tôi. Cho nên phải phát đại nguyện, nguyện tất cả chúng sanh đều được vãng sanh, nếu có xót lại chúng sanh nào thì mình sẽ độ hết. Đã phát đại nguyện rồi, tất nhiên là không ăn thịt chúng sanh, không đánh đập, chửi mắng chúng sanh, và phải thực hành.

Nếu không thực hành theo nguyện đã phát, thì thành nguyện giả, chỉ có tội chứ đâu có công đức gì? Nếu thực hành đúng theo đại nguyện thì đến lúc lâm chung, chớ nói là niệm mười tiếng Phật hiệu được vãng sanh, chỉ cần niệm một tiếng Phật cũng được vãng sanh, bằng không thì dẫu cho niệm ngàn tiếng, làm sao có hiệu nghiệm ư!

Hỏi: Tham Thiền tại sao chỉ chọn cách đi và ngồi trong tứ oai nghi?

Đáp: Trong Lịch sử Thiền tông, ngài Lục Tổ là vị danh tiếng nhất, trong Kinh Pháp Bảo Đàn Phẩm Tọa Thiền nói “Tọa Thiền là tâm tọa chứ chẳng phải thân tọa; ngoài đối với các cảnh thiện ác tâm niệm chẳng khởi là tọa, trong tâm thấy tự tánh chẳng động là thiền”. Còn ở Thiền đường đi hương tọa hương là điều thân, tức là ngồi đến mỏi thì đi, đi đến mỏi thì ngồi. Cũng như ngài Lục Tổ nói: “Đạo do tâm ngộ bất tại tọa, chúng ta tham Thiền là muốn ngộ đạo, ngộ đạo là ngộ nơi tâm, chứ chẳng phải do ngồi. Tổ còn nói: “Nên nói là tọa hay là ngọa, ấy là hành tà đạo”. Trong tứ oai nghi, hễ nằm là dễ hôn trầm, đứng thì mỏi chân, nên chọn ngồi và đi để điều thân.

- Thời xưa chưa có đồng hồ, nên ở tòng lâm đốt lên một nén hương để ngồi, nén hương hết rồi đốt lên nén khác để đi, nên gọi là ngồi hương, đi hương; người tuần tra gọi là tuần hương, cây gậy gọi là hương bảng, rồi phóng hương, tịnh hương; tất cả đều gọi là “hương”.

- Đi hương và tọa hương là hình thức bên ngoài để làm tiêu chuẩn thực hành công phu, bất cứ lúc nào cũng phải đề khởi câu thoại đầu để tham, chứ không phải là ngoài giờ đi hương tọa hương rồi thì có thể nói chuyện, không cần tham nữa, ấy là sai.

Lúc đi hương tọa hương phải tham, lúc không đi hương tọa hương càng phải tham nhiều mới đúng, nếu có giờ phút nào không tham thì công phước không thành khối được. Ngài Lai Quả nói: “Lúc bệnh cần phải tham nhiều hơn lúc khỏe” là để tập cho công phu thuần thục.

Hỏi: Có một bà lão bị đau rồi bà nói rằng “ngày mai bà sẽ chết”, nhưng có một anh thanh niên lại nói với bà rằng: “Ngày mai bà không chết, nhưng sẽ chết sau ba hôm'? Anh đó nói là do anh tham thiền nên biết trước điều đó, vậy sự thấy của anh ta có đúng với đường lối tham thiền không?

Đáp: Theo Tổ Sư Thiền thì ấy là tà, Tham thiền cần kiến tánh, kiến tánh rồi tự nhiên sẽ được thần thông, chứ đừng sợ kiến tánh rồi không thần thông, còn thần thông là nhánh lá, ngoại đạo tà ma vẫn có. Thiền tông có nhiều vị có thần thông nhưng không cho người khác hay biết, Chư Tổ vì độ chúng sanh, bất đắc dĩ hiện ra thần thông, sau đó liền thị tịch. Tại sao chánh pháp không cho hiện thần thông? Vì chánh pháp là phá ngã chấp, chỉ e rằng không kiến tánh, khi được giải thoát rồi tự nhiên có thần thông, thần thông là tự tánh sẵn có, chẳng phải do học được, hễ học được là tà ma ác đạo, chẳng phải sẵn có.

- Huỳnh Bá Thiền sư là thầy của ngài Lâm Tế, khi Thiền sư chưa kiến tánh, một hôm đi đường gặp một vị tăng, cùng đi qua con sông, nước sông chảy siết lại không có ghe thuyền, vị tăng kia bèn lột chiếc nón để trên mặt sông, bước lên trên nón và rủ ngài Huỳnh Bá cùng đi, ngài chẳng những không chịu, còn quở rằng: “Hồi nảy nếu biết ông như thế, tôi đánh gãy chân ông”. Vị tăng kia nghe rồi liền đảnh lễ giữa sông rằng: “Thật là bậc căn khí Đại thừa!”. Do vị tăng ấy còn là Tiểu thừa, không biết giữ ý và thường gặp đâu cũng hiển hiện thần thông cho người biết. A La Hán Tiểu thừa còn bị Phật quở là “tiêu nha bại chủng”.

Tổ sư Thiền không trọng về thần thông, nay có nhiều người đến học Tổ Sư Thiền, biết có thần thông là hại, muốn bỏ cũng bỏ không được, vẫn bị thần thông chướng ngại.

- Ví như Ẩn Phong Thiền Sư, thấy hai bên binh lính giao tranh, ngài muốn ngăn chặn sự đổ máu, bèn thị hiện thần thông, dùng cây tích trượng hóa thành cây cầu ngăn giữa hai bên, rồi đi trên cây cầu, khiến hai bên binh sĩ bãi chiến, nhưng sau đó liền thị tịch.

Trước khi tịch, ngài hỏi hàng đệ tử rằng: “Người ta thường thị tịch theo kiểu ngồi và đứng, có ai tịch theo thế đang bước đi không?”.

Đáp: Có.

- Thế thì có ai tịch theo kiểu đầu chống xuống đất, chân chọi lên trời không?”

- Không.

Thiền sư liền thị tịch theo thế đó, mặc dù đầu chống xuống đất, quần áo vẫn xuôi theo thân thể mà không bị rũ xuống, đệ tử muốn di dời di thể đi thiêu cũng chẳng nhúc nhích. Thiền sư có một em gái là ni sư, bèn rầy la: “Khi xưa anh thích làm chuyện quái lạ, sao đến giờ tịch rồi vẫn còn làm chuyện quái lạ vậy!” nói xong dùng tay xô một cái mới ngã xuống.

Vì e sợ người đời mê hoặc về thần thông, cho nên, Tổ Sư hễ hiện thần thông ra là thị tịch. Phật pháp sở dĩ gọi là chánh pháp, là do chẳng phá hoại thế gian pháp, mà Tổ Sư Thiền thì thế gian pháp là Phật pháp, tức xuất thế gian pháp, nên tất cả hành vi đều giữ đúng theo lẽ bình thường chứ không làm điều quái lạ hơn bình thường. Cũng như ngài Lục Tổ nói: “Phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết bàn”, Kinh Pháp Hoa nói: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”. Tướng thế gian và xuất thế gian là bất nhị, vì tự tánh bất nhị nên tất cả đều tất nhị, tự tánh vô biên nên tất cả đều vô biên. Kinh Bát Nhã nói: “Bát nhã vô biên nên tứ đại vô biên; Bát nhã vô biên thì ngũ uẩn cũng vô biên, Bát nhã vô biên nên tất cả pháp cũng vô biên”. Tại sao? Vì tất cả pháp đều do tâm tạo, pháp thế gian do tâm tạo, pháp xuất thế gian cũng là do tâm tạo, chỉ vì có cái chấp tâm nên thành khác, có tác ý nên thành khác, chẳng tác ý thì không khác vậy.

Hỏi: Trong “Thiền Thật Khai Thi Lục” có đoạn dạy rằng: Công phu lúc còn sống không dùng được sau khi chết, vì thế lúc còn sống phải tích cực công phu. Công phu lúc còn sống không thẳng qua sau khi chết”, vậy xin Sư Phụ giảng rõ nghĩa này, để hành giả lớn tuổi như chúng con tự tu tự độ, không mong đợi lúc lâm chung nhờ người khác tụng kinh hoặc tham thiền làm trợ lực.

Đáp: Tất cả pháp thế gian, xuất thế gian cũng chẳng ra ngoài nhân quả, có nhân ắt có quả, đã gieo nhân tự quả sẽ đến; nhân gieo mạnh quả đến nhanh, nhân yếu thì quả đến chậm. Bây giờ công phu lúc sống dùng đến chết, khi tắt thở là không dụng công phu được nữa, nhưng công phu trước đó đã dùng thì không mất. (Sư phụ đã giảng về 100 bước, đây lược qua).

Hỏi: Khi ngồi tham, thấy đầu và thân phát ra ánh sáng, nhưng lúc đó nghi tình và thoại đầu vẫn còn, vậy có đúng không?

Đáp: Nếu nghi tình và thoại đầu vẫn còn thì được, nhưng về những cái biết vừa kể trên là không được, ấy là hư vọng giống như chiêm bao. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật có đoạn giải thích về kiếp trước:

- Ví như hư không, con mắt chúng ta thấy biết hư không; hư không chẳng bản thể, trong Kinh nói là “Hữu không vô thể”, còn về cái kiến thì “Hữu kiến vô giác”, dù có thấy nhưng không có tri giác. Tri giác là do ý thức, nên mặc dù trước mắt thấy biết hư không, nhưng hư không ở đâu? Hư không chẳng có thực thể cho ta tiếp xúc được, mà sự thấy cũng chẳng thể tìm ra năng thấy (kiến tinh). Trước mắt thấy rõ ràng còn tìm không ra, chỉ không ra, nói chi việc trong chiêm bao ư ! Cái gì do tìm hiểu biết được, do thiền định biết được, đều chẳng phải bản tri của tự tánh, chẳng những không thể giải thoát được, lại chướng ngại cho sự giải thoát, vì biết ấy là vọng, chẳng phải chánh biến tri của tự tánh. Bình đẳng tri của tự tánh chẳng có sự tri và bất tri, chẳng có thiếu sót.

- Trong Kinh Lăng Nghiêm, Nguyệt Quang Đồng Tử tu thủy quán đến toàn thân đều biến thành nước, có chú tiểu của Ngài từ cửa sổ bên ngoài nhìn vào, thấy nước mênh mông tràn ngập cả phòng, bèn lấy cục đá liệng vào phòng. Khi Nguyệt Quang Đồng Tử ra khỏi phòng, cảm thấy tức ngực mà không biết lý do, sau nghe chú tiểu kể lại, dặn dò rằng “lần sau thấy nước đầy phòng, phải vào trong lấy cục đá ra”, rồi mới hết chứng đau. Tại sao? Mặc dù đã tu thành thủy quán, nhưng còn ngã chấp chưa dứt trừ, về sau thân cận nhiều vị Phật mới phá được ngã chấp , lúc đó mới quên cả thân. Còn Pháp thân thì cùng khắp Pháp giới, đâu chỉ hạn chế trong một phòng ư! Cho nên, những gì dùng ý thức tìm hiểu được, do thiền định biết được, bất cứ là cái gì, đều phải quét sạch; biết đen tối, biết thoại đầu cũng là biết. Cho nên Lai Quả Thiền Sư nói: “Vô tham mới là chơn tham”, lúc đó có nghi tình, là không biết mình đang tham, cũng như vô tham vậy. Do nghi tình làm cho tất cả biết đều sạch, luôn cả tham thiền cũng không biết, mới là chơn tham. Đạt đến chơn tham là kiến tánh. Nay còn biết là đen tối, biết đang tham thiền thì chưa phải chơn tham.

Tham Thiền rất dễ, rất giản dị, nhưng muốn dứt bỏ sự tìm hiểu thì rất khó. Cho nên tôi thường nói “Một trăm người tham thiền, chín mươi người không đi đúng với đường lối Tổ Sư Thiền, vì ham tìm hiểu, chính sự tìm hiểu này khiến cho thành khó”.

Hỏi: Tham thiền đề khởi câu thoại đầu, cứ nhìn vào chỗ hầm sâu đen tối đó, lâu ngày có trở thành ngu si không?

Đáp: Kinh Đạt thừa liễu nghĩa có thí dụ về “ngón tay và mặt trăng”, nếu không nhờ ngón tay chỉ thì chẳng thấy được mặt trăng. Nhưng hướng ngón tay chỉ đó có mặt trăng không? không, vì mặt trăng còn bị mây mù che khuất, tức còn bị ngũ trược phiền não che khuất, Tổ sư gọi là “hầm sâu đen tối”, chính chỗ hầm sâu đen tối đó là chỗ ngón tay chỉ, cứ nhìn thẳng vào chỗ đó, một ngày nào thình lình gió thổi mây tan, mặt trăng hiện ra.

Nhưng nay nhiều người không chịu nhìn vào chỗ ngón tay chỉ, mà chỉ nhìn vào ngón tay thì làm sao thấy được mặt trăng! Ngón tay là gì? là dụ cho kinh điển, lời dạy của Phật trong Kinh điển. Nay nhiều người nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu lời của Phật, cho là phải nghiên cứu ngón tay, tìm hiếu ngón tay, chẳng biết đã bị chướng ngại bởi ngón tay, đã không đi đúng theo lời của Phật dạy, Kinh Viên Giác nói “Những người này chẳng những không thấy được mặt trăng, cũng không biết ngón tay” Vì cho ngón tay có mặt trăng trong đó vậy.

Hỏi: Khi ngồi thiền cơ thể và đầu tự quay, và hiện ra hình ảnh của Đức Phật, như vậy có sao không?

Đáp: Sự quay đó do cơ thể tự vận động, những cảnh giới ấy đều chẳng sao cả, nhưng không được cho là tốt mà mừng rỡ hoặc kinh sợ, thấy cũng như không thấy, không cho đó là cảnh giới. Đắc lực cũng tham như vậy, không đắc lực cũng tham như vậy, cũng chẳng cho là đắc lực hay không. Nếu biết được cái đắc lực hay không đắc lực mà mống lên biệt niệm thì không đắc lực rồi.

- Đắc lực là công phu không gián đoạn, biết đó là vọng tưởng đã là vọng tưởng rồi; lại có ý niệm muốn trừ vọng tưởng, đè nén vọng tưởng, là càng thêm một lớp vọng. Tổ sư Thiền chẳng có sự tự cho như vậy là đúng, tự cho như vậy là không đúng, hoặc tự chẳng biết mình đúng hay không đúng, ấy đều lọt vào ý thức phân biệt. Phàm lọt vào ý thức phân biệt đều chẳng đúng với tông chỉ Tổ Sư Thiền, vì Tổ Sư Thiền chỉ cho nghi, ngoài ra không biết gì cả.

- Chỉ cần giữ cái không biết, đề lên nghi tình hỏi tới mãi, không màng vọng tưởng, tinh tấn hay không tinh tấn, tức ngoài câu thoại đầu ra, bất cứ biết cái gì đều là tâm trộm cắp.

Hỏi: “Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết”, vậy thế nào là sanh tử thiết?

Đáp: Sanh tử chỉ sự sanh diệt của thân ngũ uẩn này. Có sanh tử ắt có luân hồi, ngày nay đang sống thì không biết đến ngày mai còn sống hay chết, nếu không thừa lúc còn khỏe mạnh, hạ thủ công phước giải quyết bệnh lớn sanh tử, mặc dù sanh tử trong chiêm bao chẳng thật, nhưng trong lúc còn đang chiêm bao, vẫn phải chịu khổ sanh tử ràng buộc, phải từ chiêm bao thức tỉnh, ra ngoài chiêm bao, tức kiến tánh thành Phật.

Đức Phật muốn chúng ta đều thức tỉnh trong chiêm bao, còn chúng sanh thì ham thích cảnh tượng giàu sang phú quí trong chiêm bao, dù bậc tu sĩ chẳng hy vọng được giàu sang, nhưng nhiều người cũng mong muốn được danh vọng địa vị, trong Phật pháp nói đến tam độc tham sân si, thứ nhất là tham: ham thích giàu sang cũng là tham, ham danh vọng cũng là tham, cho đến bậc Bồ tát ham độ chúng sanh cũng là tham ... nên Bát Nhã Tâm Kinh nói “Vô tri diệc vô đắc”, Kinh Kim Cang nói: “Độ hết tất cả chúng sanh, chẳng có một chúng sanh được diệt độ” tức vô sở đắc, chẳng cho mình là năng độ, chúng sanh là sở độ. Nếu không vẫn còn là tham, chẳng phải bậc Bồ Tát chơn chính.

Đối với việc sanh tử nếu chẳng thiết tha, chỉ là muốn cho công phu được miên mật tinh tấn, thì có thể sau một thời gian ngắn là công phu lui sụt, vì không có mục đích, chẳng phải giải quyết sanh tử, nên dễ buông bỏ công phu. Do đó, Tổ sư dạy phải thống thiết vì sanh tử, nếu không thì tham thiền vô ích.

Phải biết tại sao có sự sanh tử, làm cho chúng ta phải chịu cái khổ này? Trước mắt thấy người già có cái khổ của cảnh già, người bệnh có cái khổ của bệnh tật, người nào cũng tranh giành danh lợi, địa vị và sự sống trước mắt, ngày nào chết cũng không biết, chết thì người nào cũng sợ, nhưng sợ vẫn phải chết! Có sanh ắt có tử tại sao lại có sanh tử? Tự mình phải giải quyết triệt để vấn đề này.

Kỳ thật, trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật giải thích rất kỹ: “Chơn tánh của ta, cũng gọi là Phật tánh, cũng gọi là Tự tánh, Chơn như, thật tướng, Pháp thân, Bản tâm, Bản kiến, Bản văn ... đều chỉ về tự tánh không có sanh tử ...” Phật dùng bản kiến dụ cho mặt trăng thứ nhất, chẳng thể nói được, còn kiến tinh tức năng kiến, là mặt trăng thứ hai, có thể dùng lời nói diễn tả được. Lời nói diễn tả được mới có thể giảng cho người nghe, còn cái chẳng thể dùng lời nói diễn tả thì phải tự ngộ mới được. Ví như chiếc ghế này, mọi người đều nhìn thấy, ấy là do kiến tinh năng thấy, nhưng tôi hỏi quý vị, kiến tinh đó ở đâu? Hãy chỉ ra xem!

* BẢN KIẾN: Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo A Nan thử chỉ kiến tinh ra xem, A Nan nói:

- Từ trên trời, dưới đất, cho đến núi sông đất đai ... những gì có thể chỉ được đều là vật, chẳng phải kiến tinh.

Phật bảo: “Vậy tất cả đều là phi kiến, phải không?”

A Nan đáp: “Chẳng phải”.

Vì nếu cái ghế gọi là kiến tính thì chẳng thể gọi là ghế, mà nếu chiếc ghế chẳng phải kiến tinh thì làm sao lại thấy được nó? Cho nên, chỉ cũng không đúng, không chỉ cũng không đúng. Tại sao? Vì kiến tinh chẳng phải vật, làm sao chỉ ra được? Có người cho rằng kiến tinh là con mắt, nhưng trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật đã giải thích vấn đề này.

Phật bảo A Nan: “Ta có cánh tay nên thành nắm tay, người có con mắt mới thấy được nắm tay ta, hai việc này có giống nhau không?”

A Nan đáp: “Giống nhau”.

Phật bảo: “Không đúng”. Tại sao? Ta có cánh tay mới làm thành nắm tay, nếu không có cánh tay

thì nắm tay tiêu diệt. Còn ngươi đi hỏi người mù xem họ thấy gì? Họ sẽ trả lời rằng trước mắt thấy đen tối”.

A Nan nói: “Thấy đen tối sao gọi là thấy?”

Phật dẫn dụ thêm: “Một người có mắt sáng ở trong phòng tối, với người mù ở trong phòng tối, hai sự thấy đó có giống nhau không?”

Đáp: - Giống nhau.

- Vậy người không có mắt thình lình được con mắt, thấy cảnh vật trước mắt, phải gọi là mắt thấy không?”

Đáp: - Phải.

“Người có mắt ở trong phòng tối, đốt lên đèn cầy thấy các cảnh vật, có phải gọi là ‘đèn thấy’ không?”

A Nan trả lời không được.

Phật bảo: “Cây đèn hiển hiện sắc tướng, sự thấy là con mắt, chẳng phải cây đèn; con mắt hiển hiện đồ vật, nhưng sự thấy là tâm, chẳng phải con mắt. Nếu nói thấy sáng gọi là thấy, thấy tối gọi là không thấy, ấy là sai. Vì lúc sáng thì không thấy tối lúc tối thì không thấy sáng: Nếu nói “Không thấy” thì hai cái đều không thấy, do lúc sáng không thấy tối, lúc tối không thấy sáng; nếu nói “Thấy” thì hai cái đều là thấy, thấy sáng cũng là thấy, thấy tối cũng là thấy. Sáng và tối là tiền trần, có sanh diệt, còn bản kiến chẳng sanh diệt; là vật mới có sanh diệt, chẳng phải vật thì chẳng có sanh diệt. Chẳng sanh diệt thì chẳng thị phi, đúng sai, đắc thất ... tất cả sanh diệt đều chẳng dính dáng đến nó. Nhưng vì có cái chấp tâm, chấp chỗ sanh diệt cho là thật, rồi mới quên bản kiến chẳng sanh diệt của mình. (Sư phụ dẫn chứng thêm về bảy chỗ gạn hỏi tâm của Đức Phật trong Kinh Lăng Nghiêm, đây lược qua).

BẢN VĂN: Trong Kinh Lăng Nghiêm nói về bản văn như sau:

“Chúng sanh mê bản văn, tuần thanh cố lưu chuyển”. Bản nghe cũng như bản kiến, cũng là chỉ về Tự tánh. Tại sao nói mê lầm bản văn? Do có sự nghe và không nghe thì chẳng phải bản văn, vì nghe là sanh, không nghe là diệt, còn bản văn thì chẳng sanh diệt. Nói PHẢN VĂN là đã xoay trở về, thoát khỏi âm thanh động tịnh, không có sở nghe, chứ không phải là dùng lỗ tai để nghe cái bản văn, nếu vậy thì bản văn trở thành sở nghe rồi, có năng sở tương đối lại chẳng phải bất nhị của Tự tánh. Cho nên, nói bản kiến, bản văn ... đều chẳng phải vật dù đặt nhiều tên gọi, nhưng thể chỉ là một. Nói là “Thể” cũng chỉ là lời nói diễn tả, đã không phải vật thì làm sao có thể ư! Bản thể cùng khắp pháp giới, nên chẳng thể chỉ ra được.

Về sự thấy, trong Kinh Lăng Nghiêm còn nói: Tại sao gần thì thấy, xa lại chẳng thấy? Sự thấy chẳng lẽ có thể kéo dài hay rút ngắn lại? Ví như con mắt tiếp xúc với chiếc ghế thì thấy chiếc ghế, tiếp xúc với cái bàn thì thấy cái bàn, nhưng tiếp xúc với mặt mình còn thấy được mặt mình không?

Có tự thấy được lông mày, lỗ mũi không? Gần còn chẳng thấy được, nói chi vật xa! Đã nói năng thấy chẳng phải vật, thì làm gì có gần và xa? Cho nên, tất cả những gì có thể chỉ ra, tìm ra được đều là vật cả, vật thì có sanh diệt, trước mắt đã chứng tỏ cái bản kiến bản văn của ta không sanh diệt, thì tại sao chúng ta cứ đuổi theo sự sanh diệt trong hiện tượng trước mắt mà sanh ra đủ thứ phiền não?

Do đó, chúng ta tham Thiền đừng có biết tới những hiện tượng thế giới trước mắt, vì đó là sanh diệt, là chiêm bao, phải tự thấy được bản kiến, bản văn của chính mình, mà điều này người khác chỉ không ra, Phật cũng chỉ không ra, vì nếu Phật có thể chỉ ra được, đã chỉ cho A Nan rồi.

Cho nên, Phật bảo A Nan: “Ta chẳng thấy được kiến tinh của ngươi, ngươi cũng chẳng thấy được kiến tinh của ta. Vì đó chẳng phải vật thì làm sao thấy? Đã chẳng phải vật thì chính là ngươi, tại sao ngươi còn hỏi ta, làm sao chỉ ra được!

Hỏi: Thế nào là tứ tướng?

Đáp: Tứ tướng trong Kinh Kim Cang là: Ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng, Kinh Viên Giác gọi là thọ mạng tướng. Trong Kinh Viên Giác có hai loại tứ tướng: Mê thức tứ tướng của phàm phu, và mê trí tứ tướng của bậc Thánh. Trong Kinh giải thích về mê trí tứ tướng như sau: Tâm có chứng đắc là ngã tướng, ngộ được sự chứng đó chẳng phải ngã, nhưng đối với ngã tướng ấy có cái năng ngộ là nhơn tướng; tiến thêm một bước, biết năng chứng năng ngộ chẳng có ngã, chẳng có nhơn, trong tâm liễu tri chỗ ngã tướng nhơn tướng chẳng thể đến, gọi là chúng sanh tướng. Lại tiến thêm một bước, năng chứng sở chứng, năng ngộ sở ngộ, năng liễu sở liễu đều không, qui về tịch diệt, nhưng còn trụ nơi Niết bàn, trụ nơi thời gian, nguồn gốc mạng căn chưa cắt đứt, gọi là chúng sanh tướng, Tào Động Tông gọi là “Tôn quý đọa”, mặc dù tôn quý là cao nhất, đến Niết bàn là cao nhất, tịch diệt hiện tiền là cao nhất rồi, tất cả năng sở đều diệt, tại sao vẫn còn đọa? Vì còn thọ mạng tướng. Phải lìa được mê trí tứ tướng mới đạt được quả Phật.

Tứ tướng dù bao gồm ngã nhơn, chúng sinh, thọ mạng, nhưng đều thuộc về ngã, chỉ là ngã chấp đến chỗ vi tế, phải lìa hết mới có thể thật chứng quả Phật, nhưng nay nhiều người tu theo ngã chấp, nên chẳng bao giờ được chứng quả Thanh Tịnh Giác của Kinh Viên Giác.

Do đó, Tổ Sư Thiền phải quét sạch tất cả mà chẳng khởi tâm quét, cuối cùng đến cả cái biết tham thiền cũng quét luôn, mặc dầu vẫn còn có nghi tình, nếu còn biết mình đang tham thiền vẫn chưa phải chơn tham, phải như ngài Lai Quả nói “Vô tham tức chơn tham”; vô tham chẳng phải không có tham, mà là đang tham mà không biết là tham, cuối cùng mói cắt đứt mạng căn, kiến tánh triệt để.

Hỏi: Bố thí thế nào không nắm lấy tướng?

Đáp: Điều thứ nhất trong Lục độ vạn hạnh của Đại thừa Bồ tát là bố thí độ, điều thứ nhất của pháp tứ nhiếp là Bố thí nhiếp, Bố thí đó chẳng phải chỉ bố thí tiền của, luôn cả thân mạng, thân tâm, Phật pháp ...

Theo tứ tướng của phàm phu, dù bố thí tiền của, nhưng không được cho là ta bố thí, chẳng cho có người lãnh thọ sự bố thí, cũng chẳng có đồ vật tiền của để cho mình thí, gọi là “tam luân thể không” tức năng thí, sở thí, vật thí đều bố thí hết, mới gọi là chân bố thí. Nhưng đó chỉ đạt đến lìa tứ tướng của phàm phu, chưa đến mức lìa tứ tướng của thánh hiền. Nói “Bố thí triệt để” là phải quét sạch ngã chấp, tức lìa cả tứ tướng của phàm phu và thánh hiền.

Tiểu thừa phá được ngã chấp, tức lìa tứ tướng của phàm phu, còn Đại thừa phá được pháp chấp, tức lìa tứ tướng của thánh hiền. Bất cứ chấp cái gì đều do ngã chấp sanh khởi, ngã chấp đến chỗ vi tế tự mình không biết, gọi là thọ mạng tướng. Thiền tông mặc dù đã kiến tánh rồi còn đi gặp thiện tri thức, là vì sợ mình còn có sở đắc, nếu cho mình là kiến tánh thì vẫn còn ngã tướng. Nhiều người rất ham tu, rất khổ tâm tu hành, nhưng tu theo ngã chấp, đến Thiền định cao chừng nào ngã chấp to chừng nấy, vì không phá được ngã chấp, tham sân si chỉ tạm thời đè nén, nên rất nguy hiểm.

Hỏi: Sau một thời gian tham thiền, con giảm bớt được phần nào về danh lợi thế gian, nhưng còn tâm trạng buồn và hay xúc động khi gặp phải cảnh khổ của người khác. Xin Sư phụ chỉ dạy thêm, làm sao quét sạch những tâm trạng đó?

Đáp: Trong cuốn Đường lối thực hành tham Tổ Sư Thiền có đề cập đến chánh nghi và hồ nghi, hồ nghi là dùng tâm đi tìm hiểu, dù là tìm hiểu câu thoại đầu, chánh nghi là chỉ cho tâm nghi, không cho tâm đi tìm hiểu. Tìm hiểu câu thoại của mình tham còn không được, huống là tìm hiểu cái khác! Đối với ngoại cảnh thế gian, chẳng phải muốn lấy hay muốn bỏ, cũng như nói đến chữ “quét”, nếu khởi tâm muốn quét cũng không đúng. Tất cả đều là tùy duyên, Giáo môn gọi là tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, bất kể gặp cảnh gì cũng không tác ý, làm thì cứ làm; thương xót kẻ nghèo nàn bệnh tật, bố thí giúp đỡ, không biết đến sự giúp đỡ bố thí là ta, người nghèo khổ ấy đang lãnh thọ sự bố thí của ta, cũng chẳng biết tới mình đang làm việc bố thí, tất cả chỉ là tùy duyên.

Hỏi: Trong lúc tham Thiền nghi tình nặng, câu thoại đầu trở thành ánh sáng đom đốm hư không và một số cảnh giới khác, vậy có đúng không?

Đáp: Nhất thiết duy tâm tạo, tất cả cảnh giới đều xuất phát từ vọng tâm, thể xác này cũng do vọng tâm tạo mới có. Đối với một số hành giả trước kia đã tu theo pháp ngoại đạo, trong lúc công phu thỉnh thoảng lại thấy có người đến hoặc đánh hoặc khảo, ấy là do vọng tâm trong tiềm thức tạo ra đủ thứ cảnh giới. Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh vọng thấy luân hồi lưu chuyển, những kẻ Nhị thừa thì nhàm chán cảnh lưu chuyển, nên vọng thấy Niết bàn”. Thấy Niết bàn còn là vọng, huống là thấy các cảnh giới khác! ( Sư phụ đã giảng về nhắm mắt chiêm bao & mở mắt chiêm bao, đây lược qua).

Một vị hành giả 80 tuổi kể lại cuộc đời đi tìm chân lý:

- Trải qua một cuộc sống đầy bon chen, đến lúc 60 tuổi, khi bắt đầu xem kinh và nghiên cứu chân lý nhà Phật, trong lòng tôi thấy có một sự rung động, từ đó hết sức chí tâm đi tìm chân lý. Tôi đã từng đi thăm viếng các ngôi chùa, kinh kệ trải qua mấy năm, nhưng không được thỏa mãn, rồi đi vào khảo cứu kinh Phật, tỉnh tâm ngồi thiền theo Yoga, vẫn chưa tìm được vị Thiền sư nào để nương tựa, nên phải dùng sách làm thầy.

Vẫn say mê trong việc tìm chân lý, rồi một hôm tôi gặp được pháp tu của ông Lương Sĩ Hằng, và trụ theo pháp đó chín năm, dù được các cảnh giới hiện tiền, nhưng vẫn không được thỏa mãn, và cho đó là vọng thức. Sau đó tôi nhận thức rằng: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, hễ mê là chúng sanh, ngộ là Phật, con đường tu hành phải tự tu cho đến một ngày kia không còn tâm giả dối, không còn man trá điên đảo, cảnh tượng địa ngục đối với người tham lam tội lỗi trở thành thiên đàng của người chân tu. Xin hỏi Sư Phụ như thế đúng không?

- Nguyên vì tôi nghe nói có một Thiền thất, tôi đến gặp Sư phụ trong ngày mở thất, nhưng hôm sau Sư phụ đã ngã bệnh và vắng đi trong một thời gian. Tôi có sưu tầm những tác phẩm của ngài về nhà đọc và bắt đầu tham thoại đầu, những ách tắc từ trước dần dần được phá tan. Đến hôm nay, Sư phụ mới mở thiền thất trở lại, và tôi đến gặp ngài, thỉnh giáo về sự thắc mắc trong tu tập của tôi dù gặp nhiều gian nan, nhưng chân lý rốt ráo đi đến thức tỉnh phải có cơ duyên gặp được mới có thể thành công.

Trước kia gặp Sư Phụ, lúc đầu bản ngã của tôi còn rất cao, tôi có chịu đánh lễ Sư phụ đâu, nhưng hôm nay là tôi xin đảnh lễ Sư phụ, vì chánh pháp đã mở mắt cho tôi, một ngày nào đó sẽ dẹp tan bản ngã.

Thưa Sư phụ, dù đang giao tiếp với bạn bè, hay đang thỉnh hỏi với ngài, câu thoại đầu tôi tham, lúc nào cũng làm cho tôi muốn bể tung cái đầu, chẳng biết trạng thái này là tốt hay xấu? Lại, câu thoại đầu lúc nào cũng theo xác tôi muốn bỏ cũng không được, nhưng trong giấc ngủ thì không có. Kính mong Su phụ chỉ dạy về sự sai quấy trong quá trình tu học bao nhiêu năm của tôi.

Đáp: Công phu của ông rất miên mật, nhưng về căn bản thì chưa đúng, vì còn chấp ngã, chánh pháp là phải phá chấp thật. Điều thứ nhất nói về ông Lương Sĩ Hằng, nghe nói tu pháp xuất hồn để lên trời nghe Phật thuyết pháp, cho Phật là ở trên trời. Người đó chẳng biết Phật pháp, còn chưa đủ tư cách bằng tà ma, vì theo Kinh Lăng Nghiêm nói, tà ma còn biết thuyết pháp.

- Nói về từ bi bác ái, nhiều người sai lầm cho từ bi với bác ái bằng nhau, sự thật thì khác, là nghịch nhau. Tại sao? Vì bác ái là ngã chấp, ví như của cải vật chất thuộc về ta, vì ta tình thương bao la nên cho người này người kia. Từ bi của Phật lại khác, khi từ bi hiện tiền thì ngã chấp đã sạch, chẳng còn năng sở; chẳng có ta từ bi, chẳng có người nhận sụ từ bi của ta, nên nói “Vô duyên từ, đồng thể bi”.

Nay nhiều người dù siêng năng tu tập, nhưng tu theo ngã chấp, nên tu cao chừng nào nguy hiểm chừng nấy. (Sư phụ đã giảng về nghĩa tứ cú đây lược qua).

Tổ sư nói: “Có tâm chẳng thể cầu, vô tâm chẳng thể đắc, ngôn ngữ chẳng thể thông đạt, im lặng chẳng thể thấu suốt”, việc này cần phải tự ngộ, phải trong chiêm bao thức tỉnh mới được. Nay ông đừng suy nghĩ nhiều nữa, cũng đừng cho là cái này cái kia, vì hễ cho là “đúng” thì lọt vào cú thứ nhất, cho là “không đúng” thì lọt vào cú thứ nhì, cho là “chẳng đúng chẳng không đúng” lọt vào cú thứ ba, cho là “cũng đúng cũng không đúng” lọt vào cú thứ tư, đều không ra ngoài tứ cú. Nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật”, dù là lời nói của Phật, lời nói của Tổ cũng là lời nói, hễ đuổi theo và hướng vào lời của Phật để tìm hiểu hay ngộ nhập, ấy là con chó, ngộ nhập tự tánh mới là sư tử.

Hỏi: Tham thiền làm sao biết miên mật?

Đáp: Lúc đang tham thiền là miên mật, nhưng nếu nổi lên một niệm biết mình đang miên mật thì đó chính là kẻ hở rồi. Nay chỉ cần tập cho công phu không gián đoạn, đến khi thuần thục rồi tự nhiên sẽ đến giai đoạn đó. Nếu công phu chưa đến mức, muốn cho miên mật thì chẳng thể được. Đối với Giáo môn cũng vậy, Kinh Pháp Cú nói: “Nếu khởi tâm tinh tấn thì ấy là vọng, không được gọi là tinh tấn”, nay khởi tâm miên mật là vọng, chẳng phải miên mật.

Tăng hỏi: Theo như con biết, thiền Mặc Chiếu thuộc tông Tào Động, sao Hòa Thượng gọi là tà thiền?

Đáp: Nói về mặc chiếu tà thiền, ngài Đại Huệ là vị Tổ sư rất danh tiếng trong Thiền tông, trong cuốn Lá Thư Thiềnđã nói rõ, còn tại sao người Việt Nam cho mặc chiếu thuộc tông Tào Động? Ấy là do bị cuốn Thiền Đạo Tu Tậpcủa ông Trương Trừng Cơ làm hại. Ngài Bác Sơn là Tổ sư kiến tánh tông Tào Động, trong cuốn Tham Thiền Cảnh Ngữcủa ngài cũng dạy người tham thoại đầu. Trương Trừng Cơ không có tu thiền, chỉ tu theo Mật tông, vì người đời không biết, nên cho Thiền Mặc chiếu là tông Tào Động.

Kỳ thật, mặc chiếu thuộc thiền bệnh, nếu lấy bệnh trị bệnh thì bệnh càng nặng thêm. Mặc chiếu là dùng sự im lặng quán chiếu vào sở chiếu, có năng có sở, ở bên Giáo môn còn có thể nói được, đối với Tổ Sư Thiền thì gọi là tà thiền. Ở đây nói là “tà” chẳng phải tà ác, vì không phải chánh pháp nên gọi là tà. Kinh Kim Cang nói: “nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo bất năng kiến Như Lai”, dùng sắc hoặc âm thanh làm sở quán sở chiếu, ấy là hành tà đạo, tà với chánh là tương đối, Tổ Sư Thiền thì tà chánh cũng phải quét sạch.

Hỏi: Trong phương pháp tu của Mặc chiếu cũng dần dần đi vào không năng sở, ví như thấy hình tướng bên ngoài của Hòa thượng, mặc là lặng mà chẳng có tướng lặng, chiếu mà chẳng có tướng chiếu, ấy là không có năng sở.

Đáp: Nay ông nói thấy hình tướng của tôi, ai thấy?

Vị Tăng: Không có ai thấy.

Sư phụ hỏi: Nếu không có ai thấy thì không có năng thấy và sở thấy, hễ không năng sở thì làm sao gọi là mặc chiếu?

Vị Tăng: Ví như câu thoại đầu, lúc đầu tham thì có năng sở, đến sau cùng thì chẳng còn năng sở vậy.

Sư Phụ: Tham thoại đầu phải có nghi tình, do nghi tình nên không có năng sở, nay chưa đến thoại đầu là còn năng sở, khi đến thoại đầu rồi câu thoại tự mất, dù câu thoại mất, hễ vẫn biết là tham thiền thì chưa được.

Bây giờ ông đã biết có mặc lặng để chiếu, ví như trong Kinh Lăng Nghiêm có người hỏi Phật: Bản tánh vốn thanh tịnh, sao bỗng nổi vọng niệm rồi trở thành chúng sanh?

Phật bảo: Tại có đặt ra giác minh, thành có sở minh. Sở minh đã lập nên tánh chiếu mất.

Ấy là năng sở. Nay nếu muốn quay về thì không nên tu theo mặc chiếu nữa, vì đó là bệnh, do đó Đức Phật đưa lên nhánh bông, chẳng phải muốn chúng ta ngộ được nhánh bông, hoặc ngộ được nắm tay, ngộ được ngón tay, là muốn chúng ta ngộ tự tánh. Chư Tổ chỉ muốn khiến người khởi lên nghi tình thôi: Nói “ngộ” cũng chỉ là tự tánh tự hiện, nếu chấp thật có ngộ tức còn mê.

Tăng hỏi: Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “Bản tánh vốn thanh tịnh, do một niệm bất giác khởi vọng thành có sở minh”, nếu kịp thời quán chiếu phản văn vọng tưởng, liền thấy được cội gốc của nó.

Đáp: Tại sao nói “Bản tánh vốn thanh tịnh?” nói hai chữ “Thanh tịnh” đã là bệnh, đã không đúng rồi, nếu nói là vốn thanh tịnh thì Cõi Vô Sắc giới đã được kiến tánh, ra khỏi luân hồi sao? Sự thanh tịnh của Cõi Vô Sắc được kéo dài biết bao nhiêu kiếp, cuối cùng cũng phải luân hồi!

Cho nên Kinh nói “Phàm là lời nói đều chẳng phải nghĩa thật”, sở dĩ đặt ra tên gọi “thanh tịnh” là để đối trị sự ô nhiễm, nếu ô nhiễm không có thì thanh tịnh cũng không còn. Tự tánh chẳng phải vật làm sao có sự thanh tịnh và ô nhiễm? Tất cả đối đãi đều không, nên nói vô sanh; sanh còn chẳng có thì làm sao có cái này cái kia, đủ thứ danh tướng ư!

Tăng hỏi: Nay con cũng công nhận lời Hòa Thượng nói về giai đoạn đầu của thiền Mặc chiếu là có năng sở ấy là phương tiện, cũng như tham thoại đầu, lúc mới đề khởi câu thoại là có năng sở, đến khi nào thành khối, khối nghi bùng nổ, tan vỡ rồi mới đạt được đại ngộ. Phải có phương tiện ban đầu đạt đến sự ngộ.

Đáp: Bây giờ phải xác định Thiền mặc chiếu là của tông Tào Động hay không, là Tổ sư nào dùng thiền Mặc chiếu? Tôi đã xem qua tất cả Truyền Đăng Lục: Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyênv.v... trong bảy ngàn Tổ kiến tánh, chẳng có Tổ nào dùng thiền mặc chiếu cả. Vì mặc chiếu chẳng phải Tổ Sư Thiền, nên ngài Đại Huệ gọi là tà thiền, và cho những người dạy mặc chiếu “chẳng phải con người”.

Phẩm thứ nhất của Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Lục Tổ nói với Ấn Tông Pháp sư: “Thiền định giải thoát chẳng phải Phật pháp”, thiền định giải thoát còn chẳng phải Phật pháp, nói chi định với huệ? Nếu nói về trí huệ thì Tâm Kinh nói “vô trí diệc vô đắc”, kinh sách Giáo môn còn nói vậy, huống là Tổ Sư Thiền, vốn là giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự!

Tăng hỏi: Ấy là qua văn tự, nếu thật sự thể nghiệm qua bản tánh thanh tịnh hằng liễu tri thì đó chẳng khác với tri kiến Phật, nếu nói tri kiến Phật chẳng thể chấp nhận, cho là tà thiền thì là thế nào?

Đáp: Tri kiến Phật là gì? Trong Yếu Chỉ Pháp Hoa đã nói: “Chẳng lập tất cả tri kiến mới gọi là tri kiến Phật”, Kinh Lăng Nghiêm nói “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”. Vậy tại sao phải lập ra văn tự? Ấy là để độ chúng sanh, lập xong liền phá, lập chẳng phải là lập thành chân lý, là lập để phá chấp, để cho người ta biết những thứ đó là vọng, chớ có đuổi theo tìm hiểu.

Hỏi: Như Thầy vừa nói về thiền Mặc chiếu, rằng “mặc” chẳng khác với định, “chiếu” chẳng khác với huệ, trong đó chẳng có sở chiếu nên năng chiếu thường hằng; có cái tri thường hằng mà chẳng có sở tri, nhưng con nghĩ: Nói về MẶC thì mình có biết cái mặc đó không? có biết đến cái chiếu đó không? về cái tri cũng thế. Nếu có, thì ai biết?

Đáp: Vì các thứ ấy là năng, có năng ắt có sở, định huệ ấy là sở. Ngài Lai Quả nói: “Hễ còn biết, dù biết mình đang tham thiền còn chưa được”. Giáo môn sở dĩ lập ra đủ thứ tên gọi, để phá tri kiến chấp thật của chúng sanh, chứ không phải có chân lý.

Nay người ta nghe tôi nói “mặc chiếu là tà thiền”, liền cho đó là tà ác, ấy là không đúng; cho mặc chiếu không công hiệu, cũng không đúng. Ngoại đạo tu pháp mặc chiếu cũng có công hiệu, cũng có thần thông, cũng giảng kinh thuyết pháp, có hàng đệ tử, đều nói sẽ thành Phật, nhưng không được giải thoát, sau khi hưởng hết phước báo, còn phải chịu khổ luân hồi. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: Dù tu thành tà ma ngoại đạo, nhưng vẫn có thiền định của nó, vẫn có định có huệ, chỉ là định huệ đó không giải thoát được khổ luân hồi, nên bị Phật chê là tà ma ngoại đạo. Thậm chí hàng Thanh Văn, Duyên Giác còn bị Phật quở là tiêu nha bại chủng, vì chỉ đi đến nửa đường, còn chấp có pháp để tu được giải thoát, chấp Niết bàn của Tiểu thừa cho là cứu cánh, cho có Niết bàn là thật.

Do có cái chấp đó thành 62 kiến chấp, nên tất cả hiểu biết đều gọi là kiến hoặc, tất cả tư tưởng đều gọi là tư hoặc. Dứt được tất cả kiến hoặc và tư hoặc thì chứng quả A La Hán, nhưng cũng chưa đến cuối cùng, vì còn chấp pháp.

Nay đã chê pháp Tiểu thừa mà cho mặc chiếu là pháp tu đúng đắn thì không bằng Tiểu thừa, vì chưa phá được ngã chấp, lại thêm pháp chấp.

Hỏi: Trong Kinh có nói: “Nhất nhơn tu đạo, cửu huyền siêu thăng”, còn Sư phụ thì nói là “ai tu nấy chứng”, vậy có mâu thuẫn không?

Đáp: Cũng như ăn cơm, ai ăn nấy no, dù người con có hiếu cũng chẳng thể ăn giùm cha mẹ. Nói đến “Nhất nhơn hành đạo, cửu huyền siêu thăng”, là vì người đó đã phát tâm độ hết chúng sanh, cửu huyền thất tổ cũng là chúng sanh. Như Phật Thích Ca tu thành đạo rồi vẫn trở về độ cha mẹ, cha mẹ nghe lời, tu theo chánh pháp cũng được giải thoát, kể cả sau khi người mẹ sanh cõi trời, Phật còn lên Cõi trời để thuyết pháp cho mẹ nghe, chứ chẳng phải Phật Thích Ca tu thành đạo là cha mẹ được siêu độ.

Hỏi: Người tu pháp môn Tổ Sư Thiền, nhờ có pháp tu nên ít thấy phiền não, nhưng cũng thường khi hoặc vô tình, hoặc cố ý gây nên phiền não cho người khác, vậy họ có mắc vào nhân quả không?

Đáp: Nhân nào quả nấy; nhân nhỏ quả nhỏ, nhân lớn quả lớn, phàm có tâm biết là đã có nhân rồi. Nên Kinh Địa Tạng nó: “Khởi tâm động niệm đều thành nghiệp nhân”, khởi tâm động niệm đều thành hạt giống, cơ duyên chín mùi thành quả. Kinh Đại thừa Phật Pháp nói: “Thấy người ta bố thí, dù mình không có tiền của, khởi niệm hoan hỷ, cũng là công đức”.

Tâm khởi niệm ác cũng thế, như Uất Đầu Lam Phất đang tu dưới gốc cây trong rừng, bị tiếng chim hót làm nhiễu loạn thiền định, tu bên bờ sông thì bị tiếng cá nhảy trong nước làm nhiễu loạn, bỗng khởi một niệm rằng “sau này tôi sẽ làm con chồn bay, vào nước ăn cá, vào rừng ăn chim”, niệm đó trong giây lát rồi quên đi, nhưng Phật Thích Ca thọ ký sau khi sanh cõi trời, trải qua tám muôn kiếp, sẽ đọa làm con chồn bay. Do đó, hễ khởi tâm động niệm đều là nghiệp nhân, đều phải chịu nghiệp quả, trừ khi ra khỏi mở mắt chiêm bao, mới không bị nhân quả trong chiêm bao ràng buộc.

----o0o---

Vi tính: Minh Trí - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 5415)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6019)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3634)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5081)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5186)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12751)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11412)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5417)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 13711)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7485)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567